Nhà văn Nga M.Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Văn chương là loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng, phản ánh đời sống. Tài năng và sức sáng tạo của một nhà văn thể hiện ở trình độ sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt những nội dung tư tưởng tình cảm thẩm mĩ. Về phương diện này, Truyện Kiều là mẫu mực có một không hai của văn học Việt Nam thời trung đại, là hiện tượng tập đại thành của ngôn ngữ thơ ca truyền thống. Đạt đến thành tựu rực rỡ như vậy là bởi Nguyễn Du đã kế thừa, phát huy được những khuynh hướng sáng tạo ngôn ngữ khác biệt, độc đáo, trong đó có việc sử dụng tiếng địa phương Nghệ Tĩnh.
Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, con người và tác phẩm đã được tổ chức Văn hóa thế giới UNESCO công nhận và nhiều người biết đến. Nhân 250 năm ngày sinh nhà thơ Nguyễn Du (1766-2015) chúng ta cùng tìm hiểu về những di sản văn hóa gắn với ông ở trên đất Thái Nguyên.
Từ những năm 80 đến nay việc nghiên cứu Truyện Kiều ở nước ta đã có những tiến bộ vượt bậc. Nếu công lao của các nhà yêu văn học thế kỉ XIX là chép tay và khắc ván in Truyện Kiều để phổ biến rộng rãi cả ba kí Trung Nam Bắc, thì thành tựu của những năm cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX là phiên âm Truyện Kiều từ chữ Nôm sang chữ quốc ngữ và chú thích chú giải Truyện Kiều. Phong trào cổ súy Truyện Kiều đầu thế kỉ XX có công nâng cao vị thế Truyện Kiều trong mắt quốc dân, phát hiện cội nguồn của nó. Thành tựu nghiên cứu giữa thé kỉ XX gắn liền với hoạt động kỉ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. Các giá trị nhân đạo, hiện thực, giá trị triết lí của Truyện Kiều được khẳng định. Bước sang giai đoạn từ những năm 80 đến nay nghiên cứu Truyện Kiều của chúng ta có năm thành tựu đáng chú ý.
Nguyễn Du (1765 - 1820) sinh ra Thăng Long, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê - Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài hát xướng.
Từ trong lòng xã hội phong kiến, khi mà quan điểm Nho giáo đang thống soái với những gọng kìm tàn bạo siết chặt số phận người phụ nữ thì Nguyễn Du đứng trên lập trường của chủ nghĩa nhân văn, tiến bộ đã xác quyết khả năng phi thường của nữ giới trên hành trình đi tìm giá trị bản thể. Với việc tự do lựa chọn và chủ động kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc đích thực cho cuộc đời mình, nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đạt đến tự do với tư cách là một chủ thể đích thực chứ không phải như là tha nhân trong mối quan hệ với nam giới…
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Buâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều.
Lời thơ của nhà thơ Tố Hữu khiến người đọc không khỏi bồi hồi, xúc động khi có dịp đi qua Nghi Xuân – Hà Tĩnh. Người ta nhớ thương Kiều và người ta nhớ đến Nguyễn Du.
Mở đầu “Truyện Kiều”, Nguyễn Du viết: “Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh khéo mà ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…”. Và trong một câu thơ chữ Hán, Đại thi hào cũng khẳng định: “Mục trung sở xúc, năng vô lệ” (Không thể không rơi lệ vì những điều trông thấy).
Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ là cụ Nguyễn Nhiệm ( Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành( Phương Trạch hầu), Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm ( Xuân Quận công ) thân phụ của Nguyễn Du.