Lịch sử nghiên cứu cho thấy, đối với những tác giả, những vấn đề văn chương nổi bật, được nhiều nhà khoa học quan tâm thì việc tiếp tục khai thác những khía cạnh mới mẻ là điều khá khó khăn, song đối với thiên tài văn học Nguyễn Du, điều đó dường như là một ngoại lệ. Càng đào sâu suy nghĩ càng cho ta thấy những chiều kích chưa bao giờ giản đơn mà ông để lại cho hậu thế, một trong những vấn đề ấy là ứng xử của Nguyễn Du với tôn giáo, tín ngưỡng bản địa. Ông chắc chắn không phải là một cá nhân “hành tín” với bất kỳ tôn giáo, tín ngưỡng nào như một tu sĩ chuyên nghiệp, song trong cách thể hiện bằng văn chương vẫn có thể thấy một thái độ “dung hòa” tam giáo và tín ngưỡng, thậm chí có những đoạn, những tác phẩm còn được sáng tác như một hình thức “đặt hàng” cho một nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng nào đó. Có điều, nó không hoàn toàn mạch lạc, rõ ràng mà cứ bàng bạc ẩn sau câu chữ như chính con người nhiều tâm sự u uẩn, không dễ nói thành lời mà sử sách từng ghi chép về ông.
Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều được bàn ở đây giới hạn trong khuôn khổ các văn bản đọc chứ chưa đề cập đến tiếp nhận trong phạm vi diễn xướng (như đố Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều, sân khấu hóa Truyện Kiều…). Trong đời sống văn học, tác giả làm ra tác phẩm có ý nghĩa khởi đầu. Nhưng nói đến câu chuyện tiếp nhận là nói đến vai trò trung tâm của người đọc. Lý thuyết tiếp nhận tập trung vào người đọc. Các nghĩa của văn bản luôn được các kiểu người đọc làm mới, làm phong phú, khác biệt.
Nguyễn Du (1766 - 1820) là nhà thơ nổi tiếng (Đại thi hào) của dân tộc Việt Nam, được UNESCO liệt vào hàng danh nhân văn hóa thế giới. Sinh thời, Nguyễn Du đi nhiều nơi, thấu rõ nỗi khổ của nhân dân giữa thời phân hóa ly loạn của Việt Nam thế kỷ XVIII. Vì thế, tiếng nói thi ca của ông đậm tình người, ngát hương nhân bản. Trong phần biên khảo này, người viết khảo sát tư tưởng của đại thi hào chỉ qua Truyện Kiều.
Đã có không ít học giả ca ngợi Truyện Kiều không tiếc lời trong bài viết của mình. Tại lễ kỉ niệm ngày mất của Nguyễn Du năm 1924, trong Bài diễn thuyết về quốc văn, Phạm Quỳnh đã say mê bộc bạch tình yêu của mình đối với Truyện Kiều – tác phẩm mà ông cho rất là quý báu, đời đời làm vẻ vang cho cả giống nòi: “Hiện nay suốt quốc dân ta, từ trên hàng thượng lưu học thức, dưới đến kẻ lam lũ làm ăn, bất cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết Truyện Kiều, ai ai cũng thuộc Truyện Kiều, ai ai cũng kể Truyện Kiều, ai ai cũng ngân Truyện Kiều…”. Với ông Truyện Kiều vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là thánh thư phúc âm của cả dân tộc” và cũng “chiếm được một địa vị cao quý” trong nền văn học thế giới.
Cuối năm 2014 UNESCO đã trân trọng ghi tên Nguyễn Du vào danh sách danh nhân văn hóa thế giới, khẳng định tầm nhân loại của sự nghiệp văn chương của ông. Bằng ngôn từ nghệ thuật trác tuyệt, nhà thơ đã bộc lộ những tư tưởng cảm xúc về những vấn đề bức thiết của đời sống bản thân, đời sống đồng bào và đồng loại. Trước tác của Nguyễn Du đậm đà chủ nghĩa nhân đạo bởi vậy đủ sức vượt thời gian và không gian, đến được với đông đảo công chúng, bất chấp bao điều khác biệt.
Đọc Nguyễn Du, chúng ta thấy tình yêu thương con người, trăn trở với số phận từng con người, nhất là những người đang đau khổ, để hướng ngòi bút của mình vào đó. Người cầm bút tốt nhất đừng nên đứng bên trên con người để viết về con người với lòng thương hại hoặc mệnh lệnh, chỉ trỏ, hãy sống với con người, hòa mình với con người để vẽ nên nét đẹp của con người, kêu đúng tiếng đau của con người, nói đúng khát vọng của con người…
Đọc “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, những ai tinh ý đều không bỏ qua hình ảnh khỏa thân của Kiều khi tắm dưới mắt Thúc Sinh: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Đó là câu thơ tụng ca thân thể người đẹp duy nhất trong văn học trung đại Việt Nam, không có trong nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân. Chữ “tòa thiên nhiên” đã gợi lên một công trình, một kiến tạo, một kiến trúc mà chỉ có thiên nhiên mới làm được. Một sự thật hiển nhiên nghìn đời mà bây giờ mới đi vào văn học. Nhưng đó chỉ mới là phần lộ trên mặt nước của một tảng băng trôi.