Quá trình tìm hiểu kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 16/9/1820) trải suốt từ thế kỷ XIX đến XX và đã đạt nhiều thành tựu. Đặc biệt từ giai đoạn Đổi mới đất nước (1986) đến nay, việc nghiên cứu, tiếp nhận Truyện Kiều đã phát triển ngày càng sâu rộng hơn, bao quát trên tất cả các phương diện, từ định hướng tổ chức, sưu tầm, phiên âm, giới thiệu văn bản đến nghiên cứu, bình luận, giảng dạy trong nước và quốc tế.
Tại Viện Văn học vừa diễn ra Hội thảo khoa học Quốc gia nhân kỷ niệm 200 năm Ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du với chủ đề “Nguyễn Du - Truyện Kiều qua văn bản và các liên văn bản văn chương nghệ thuật”, thu hút các nhà nghiên cứu, giảng viên ở trong và ngoài nước với những nhận định và cung cấp tư liệu mới thú vị.
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc Việt Nam với vị trí và tầm vóc khó có ai sánh nổi. Tên tuổi và sự nghiệp của ông được thế giới biết đến nhiều nhất trong số tất cả các nhà thơ Việt Nam, bởi một lẽ đơn giản ông là người thể hiện tài hoa nhất tính dân tộc và tâm hồn Việt. Trong số các tác phẩm của Nguyễn Du Truyện Kiều là kiệt tác hết sức đặc biệt, vừa mang tính văn chương bác học, vừa mang tính phổ cập bình dân, vì thế được đông đảo quần chúng hơn hai thế kỷ qua nồng nhiệt đón nhận và nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu không ngừng bình luận, khám phá.
“Mặt ngọc lỡ sao vùi đáy nước
Lòng trinh không thẹn với Kim Lang
Đoạn trường tình mộng duyên đã đứt
Bạc mệnh đàn ngưng hậu vấn vương…”
(Phạm Quý Thích)
Từ điển tiếng Việt ghi hai chữ đớn hèn như sau: “Hèn đến mức tỏ ra không có chút bản lĩnh, rất đáng khinh”. Chúng tôi nghĩ, với Thúc sinh không có từ nào khác đúng bản chất của Thúc hơn hai từ ấy. Có bốn biểu hiện như sau: thứ nhất, Hoạn thư hành hạ Thúy Kiều chưa nói đến chuyện Thúc ra tay cứu vớt, chỉ cần có lời can ngăn, Thúc không có.
Nguyễn Du có nhiều ông anh, người cao tuổi nhất (con của bà cả Đặng Thị Dương) là Nguyễn Khản làm Tể tướng đương triều, hơn Nguyễn Du 32 tuổi.
Nguyễn Đề (còn có tên Nguyễn Nễ) là con thứ bà Trần Thị Tần, trắc thất của Nguyễn Nghiễm Xuân quận công (bà sinh 4 con trai là Nguyễn Trụ, Nguyễn Đề, Nguyễn Du, Nguyễn Ức, và 1 con gái là Nguyễn Thị Diên). Nguyễn Đề đỗ cử nhân, ra làm quan nhà Lê-Trịnh rồi triều Tây Sơn, ông “khuất phục” (chữ trong thơ của ông), ra làm quan Tây Sơn, đi sứ, đi trấn thủ địa phương (Quy Nhơn), làm quan trong triều. Gia Long lên, ông lại làm quan triều Nguyễn, và chắc ông tiến cử Nguyễn Du ra làm quan (tri huyện huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Hưng Yên)(1).
Tên tập thơ, đã được nghe từ lâu. Nhưng từng bài thơ, thì quả thực chưa có dịp đọc. Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du ở Tiên Điền đã được khai trương từ năm 1960 (1). Ngôi đình cổ làng Nhân Thọ - hồi đó gọi là đình chợ Trổ, được chuyển về. Qua tu bổ, chỉnh trang, thành ngôi nhà trưng bày chính trong Khu lưu niệm. Ngoài gian chính, trưng bày thơ văn, di vật của Nguyễn Du, có thêm gian giới thiệu thơ văn, tư liệu trong dòng họ Nguyễn. Tập thơ này được trưng bày tại đó.
Trong việc "báo ân báo oán", không biết vì lý do gì mà nàng Kiều đã quên hẳn một người nặng tình, nặng nghĩa và rất có công với nàng. Mặt khác nàng lại cũng không đả động đến một người rất có tội với nàng, đáng ra phải bị trừng phạt. Có lẽ căn cứ tốt nhất, chính xác nhất, hợp lẽ nhất để ta cho rằng nàng Kiều đã quên ơn một người và đã để lọt một tội phạm là xem cách nàng đã trả ơn và báo oán các nhân vật ra sao rồi so họ với các nhân vật mà ta muốn nói tới...
Dòng họ Nguyễn Tiên Điền của thi hào Nguyễn Du, khởi tổ là Nam Dương Hầu Nguyễn Nhiệm, dòng dõi trạng nguyên Nguyễn Thiến (1495- 1557), nguyên quán làng Canh thuộc thành phố Hà Nội. Đọc thi hào Nguyễn Du, chúng ta thường chỉ biết ông là con trai Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, em quận công Nguyễn Khản, ít ai chú ý đến người ông nội của Tố Như cũng là một nhân vật cự phách: Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh.
1. Về ba tập thơ chữ Hán Nguyễn Du
Thơ chữ Hán Nguyễn Du được sáng tác liên tục trong một thời gian dài từ năm nhà thơ 21 tuổi (1786) cho đến năm nhà thơ 49 tuổi (1814), trước lúc chết năm năm. Ba tập thơ chữ Hán của ông là: Thanh Hiên thi tập (Thanh Hiên tiền hậu tập), Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.