Trong lịch sử của các dòng họ trên quê hương Hà Tĩnh, họ Nguyễn - Tiên Điền là một trong những dòng họ để lại cho đời sau nhiều dấu ấn về truyền thống học hành, khoa bảng, thành danh trên nhiều lĩnh vực và có nhiều đóng góp cho sự phát triển quê hương, dân tộc, như: Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Khản, Nguyễn Đề ... và tiêu biểu là Đại thi hào Nguyễn Du - Người đã hai lần được Thế giới vinh danh.
Nguyễn Nghiễm (1708-1776) là con trai thứ 2 của Lĩnh Nam Công Nguyễn Quỳnh và là thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du. Ông là một nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà sử học uyên bác và là người đứng đầu về cử nghiệp, khoa bảng của họ Nguyễn - Tiên Điền. Đậu tiến sĩ năm 1731, làm Tế tửu Quốc tử giám năm 1742, năm 1762 được thăng Tể tướng và có gần 50 năm hoạt động trên chính trường Lê - Trịnh, dù làm tướng võ hay làm tướng văn, ở chức nào Nguyễn Nghiễm cũng được triều đình Lê – Trịnh hết sức trọng vọng. Sau khi xin trí sĩ được thăng Đại tư đồ, lúc mất được vua ban thụy Trung Cần, bao phong Trung đẳng phúc thần. Ông đã để lại nhiều trước tác có giá trị như "Quân trung liên vịnh", "Xuân Đình tập vịnh", "Cổ lễ nhạc thi văn", bài phú "Khổng tử mộng Chu công" và “Lạng Sơn thành đồ chí”... Ngoài những trước tác có giá trị thì bút tích của ông hiện còn được bảo tồn ở một só địa phương.
Năm 1929, Hội Khai trí Tiến Đức khởi tạo văn bia Tưởng niệm Đại thi hào Nguyễn Du và năm 1930 hoàn thành. Bia được đặt trang trọng trong sân khuôn viên của trụ sở Hội Khai trí Tiến Đức, nay là địa chỉ số 16, Lê Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Nguyễn Tán sinh năm Giáp Tý (1804), tên chữ là Tụ Phủ, hiệu Cẩm Đình, là người có tài và thông minh. Khoa thi Nhâm Thìn (1832) ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, giữ đến chức Lại bộ Viên ngoại lang. Ông mất vào năm Ất Mùi (1835) dưới triều vua Minh Mạng năm thứ 16
Lạng Sơn Đoàn thành đồ của Nguyễn Nghiễm có giá trị khá đặc biệt đối với vùng đất Lạng Sơn nói riêng và đối với nhiều lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hóa lịch sử của nước ta nói chung. Đây là một trước tác thuộc lĩnh vực địa chí học ghi chép về mảnh đất biên cương Lạng Sơn, cũng chính là một trong những công trình rất giá trị mà Nghị Hiên công để lại cho đời. Vì thế, trong những năm vừa qua, chúng tôi đã thu thập, phiên dịch và bước đầu nghiên cứu về Lạng Sơn Đoàn thành đồ. Với bài viết này, trên cơ sở nghiên cứu văn bản học, chúng tôi xin được khái lược những nét giá trị điển hình của tác phẩm trên, ngõ hầu cung cấp thêm một tư liệu đáng quí cho khoa học lịch sử và văn hóa...
Trong số những danh nhân họ Nguyễn Tiên Điền kể từ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm trở đi, Nguyễn Hành có thể được xem là một vị xử sĩ tài năng, tiếng tăm lan truyền khắp chốn. Không phải ngẫu nhiên khi ông được người đời tôn xưng là một trong “An Nam ngũ tuyệt” xứ Nghệ (thế kỷ XVIII – XIX), sánh ngang với Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du – người chú ruột của mình.
Như đã nói ở kỳ trước, Nguyễn Du là một trong ba nhân cách lớn của dân tộc thấu ngộ nghĩa lý Kinh Kim Cương. Nguyễn Du đã lấy Kinh Kim Cương làm sự nghiệp và mang cốt cách của một vị thiền sư thực sự theo tính truyền thừa.
Cuộc gặp gỡ giữa Kinh Kim Cương và tư tưởng của Đại thi hào Nguyễn Du (Kỳ 1)
Trong dòng phát triển của Phật giáo và lịch sử dân tộc Việt, Kinh Kim Cương là một bản kinh có vị trí vô cùng quan trọng. Những nhân cách lớn trong lịch sử và văn hóa dân tộc đã tiếp nhận, suy niệm và sử dụng Kinh Kim Cương.
Nguyễn Khản quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, mẹ là bà Đặng Thị Dương, con gái thứ 2 của Tri phủ Đặng Sỹ Vinh, vốn thông minh, xinh đẹp, làu thông kinh sử, 16 tuổi lấy chồng và sinh ra Nguyễn Khản vào ngày 3 tháng 3 năm Giáp Dần (16/4/1734). Theo Hoan Châu - Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả: Trước lúc sinh ra Nguyễn Khản, “phu nhân chiêm bao thấy ở dưới mặt trời lại có một mặt trời khác, bà có thai 11 tháng rồi sinh ra ông”. Giấc mộng đó là điềm báo trước sự thành đạt của chồng và con trai bà.