Chuyện rằng trong dân gian Nghệ Tĩnh từ cuối thế kỷ XIX, sau các lũy tre làng vào những đêm trăng sáng thường diễn ra nhiều cuộc hát vi dặm của thanh niên nam nữ giữa hai làng; có khi là giữa hai huyện cách nhau một con sông nhỏ, hoặc cách nhau mấy quả đồi nhấp nhô của dãy núi Thiên Nhẫn phân đôi hai tỉnh. Tiếng ca hát vui buồn là biểu hiện khát vọng sống chính đáng của nhân dân, nhất là phụ nữ, mà ngày nay được mệnh danh là Nhân quyền.
Thời bấy giờ, Truyện Kiêu thường được đông đảo bà con đem ra hát bởi câu chuyện nói lên được niềm vui sống của cộng đồng, và xem thơ dường thấy có mình ở trong ; dù đang bị vây hãm giữa vòng tăm tối của chế độ thực dân phong kiến cả về vật chất lẫn tinh thần.
Bài viết này chỉ khoanh vùng trong phạm vi những câu hát đồ dân gian bắt nguồn từ Truyện Kiều qua lời kể của lớp người đã khuất cùng các giai thoại hàng ngày. Thường là sau những câu chào hỏi mở đầu buổi hát, phe bên nữ cất lên câu đố đậm nét văn thơ. Một cô gái có giọng cao vút, bỗng hát lên: Truyện kiều anh thuộc làu làu / Đố anh kể được hai câu vẹn tròn?
Câu đố quá khó, vượt ra ngoài tầm hiểu biết của đông đảo trai làng? Phải có các sinh đồ trẻ, khá lanh lợi, "thâm nho", ngồi gà phía sau; nếu không kịp thời đáp lại là thua cuộc, chịu bẽ mặt trước phái nữ.Sau mấy phút bàn tán xì xào, phe con trai bèn cử người cất tiếng đáp lại rõ ràng: Trăm năm trong cõi người ta / Mua vui cũng được một vài trống canh.
Tiếng vỗ tay chúc mừng, những câu hỏi lại tiếp tục đổ dồn khó khăn hơn:
- Truyện Kiều anh thuộc làu làu/ Đố anh biết được câu nào toàn chữ Nôm ? Ôi trời ơi! Khó quá! Làm sao trả lời? Hơn ba ngàn câu thơ, ai mà thuộc được? Thật ra trong Truyện Kiều có khá nhiều câu lục bát được viết toàn chữ Nôm, chẳng hạn:
+ Sè sè nấm đất bên đàng, / Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
+ Chén đưa nhớ bữa hôm nay / Chén mừng xin đợi ngày này năm sau.
+ Làm cho cho mệt cho mê, / Làm cho đau đớn ê chề cho coi.
+ Tha ra thì cũng may đời/ Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
+ Lo gì việc ấy mà lo/ Kiến trong miệng chén có bò đi đâu.
Cũng có thể kể nhiều câu toàn Nôm nữa, nhưng có lẽ "Nôm nhất" vẫn là hai câu sau đây của một chàng trai hay chữ, giỏi giang trong vùng phát hiện ra: Này chồng, này mẹ, này cha, / Này là em ruột, này là em dâu. Nhìn ở góc độ từ ngữ cũng như kết cấu hình tư¬ợng, âm vận, nhịp điệu thì đây là câu văn xuôi giản dị, đời thường, nhàm biểu hiện nỗi bàng hoàng "nghe tin ngác ngác rụng rời,/ Xúm quanh kế nọ, rộn lời hỏ tra". Quả vậy, nào ngờ Giác Duyên đưa tin cho biết nàng Kiều còn sống ở “thảo am đó cũng gần kề, chẳng xa ".
Cách nói liệt kê chân thật, chẳng chút màu mè, rằng cả nhà đông đủ vừa tủi, vừa mừng, nhớn nhác về việc Thúy Kiều xuất hiện, chứ không phải đã chết ? Thế là sau 15 năm lưu lạc, bao người tư-ởng nàng đã khuất xa không bao giờ trở lại. Bỗng nghe tin nở mặt, nở mày, / Mừng nào lại quả mừng này nữa chăng? "
Cảnh tượng thật là cảm động? Và nét sáng tạo quý giá nhất là ở chỗ, nhà thơ đã đưa tiếng mẹ đẻ vào văn chương thành văn rất tự nhiên, góp phần làm giàu cho ngôn ngữ thi ca ông Việt ở cuối thế kỷ XVIII. Đó là một đóng góp vô cùng quan trọng đáng khâm phục, không dễ gì có được giữa lúc chữ Hán đang ngự trị, thậm chí cả lời khấn cúng cơm trước bàn thờ tổ tiên, ông bà... đã khuất cũng bằng chữ Hán, dù khi họ chưa hề học chữ nào! Đến tận ngày nay, thế kỷ 21 vẫn rất nhiều người khấn trước các bàn thờ đền, chùa, miếu, phủ và gia đình bằng chữ Hán!...
Còn trong hát dặm, tựa như cuộc thi hát vui ngày nay, phụ nữ vẫn chưa buông tha các chàng trai, mà vẫn thách đố tiếp: Truyện Kiều anh thuộc làu làu, / Đố anh biết được câu nào toàn chữ nho? Khó vô cùng? Sao mà ác thế? Làm sao trả lời được! Bọn con trai ngơ ngác gần như chịu đầu hàng. Bỗng có chàng trai reo lên, rồi vội cất cao tiếng hát: Hồ công (Hồ Tôn Hiến) quyết kế thừa cơ / Lễ tiên, binh hậu, khắc cờ tập công. (Nếu ai đó chịu khó mở Truyện Kiều tra tìm từng câu, từng chữ, đọc thật kỹ cũng khó mà " tìm ra câu nào toàn chữ Nho hơn thế?. Mặt khác, bàn tới Truyện Kiều không thể không nói đến chuyện Bói Kiều. Chẳng biết tự bao giờ Bói Kiều đã trở thành tập quán tìm ăn sâu vào đời sống thường ngày của nhân dân, không chỉ tại đất Lam Hồng, mà còn khá phổ biến ở nhiều nơi trên cả nước. Từ lâu lắm rồi, vào năm 1898, trong bài Tựa viết cho bản Kiều Oanh Mậu (in năm 1902), Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ đã nêu lên câu hỏi tha thiết: "ôi, sao mà lại có văn hay làm say người đến thế. Còn một điều lấy lâu lạ nữa là người đời dùng để bói, thì thấy ứng nghiệm như thần!".
Ở Hà Tĩnh quê tôi, trước tháng Tám 1945, hầu hết các gia đình trước bàn thờ ở gian giữa có một bàn nhỏ cao (yên thư) thường đặt cuốn Truyện Kiều Ai muốn bói phải gấp cuốn sách lại, rồi lẩm nhẩm đọc lời khấn (nếu không biết chữ, có thể nhờ bói hộ): "Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy Tiên Thúy Kiều... Hôm nay là ngày... Con tên là... xin bói một quẻ về đường tình duyên, tài lộc con cái,.... Con xin bốn câu, trang bên trái, hoặc bên phải... Bói xong rồi, có thể có vài người ngồi cạnh cùng giải thơ Kiều, đoán xem mức độ linh ứng... Cách đây mấy năm, trong khu tập thể đại học Tổng hợp, tôi từng chứng kiến GS. Toán học P.H khá hiền lành, cứ mỗi sáng đi làm đều tạt qua căn phòng GS. Sử học Phan Đại Doãn cùng tầng ba, cầm Truyện Kiều trên giá sách bói một quẻ, rồi vừa đi vừa lẩm nhẩm. Tôi không tiện hỏi về hiệu quả ứng nghiệm đến đâu với ông, song cái chính là ông rất chân thành!
Hơn nữa, Truyện Kiều còn được Bác Hồ của chúng ta thường hay lấy Kiều trong trò chuyện đời thường và cả trong ngôn ngữ hành chính. Xa quê Kim Liên 50 năm, lúc về thăm quê, Bác đã đọc hai câu Kiều:
- Quê hương nghĩa nặng tình sâu / Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình!
Đặc biệt, trong diễn văn đón tiếp Tổng thống nước Cộng hòa Ghinê Xê cu Turê tại sân bay Gia Lâm ngày 15/9/1960, Bác Hồ đã nói: Đến bây giờ mới thấy đây, / Mà lòng đã chắc những ngày thanh niên.
Kết thúc bản Di chúc cuối đời đầy tâm huyết Bác cũng láy lại câu Kiều tràn đầy ý nghĩa: Còn non, còn nước, còn người, / Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay .
Mỗi lần nhắc lại câu thơ trên, người đọc có thể liên tưởng đến hai câu Kiều: Còn non, còn nước, còn dài, / Còn về còn nhớ đến người hôm nay.
Không chỉ dừng lại ở địa hát văn thơ, Truyện Kiều còn được khẳng định giá trị trong quan hệ rộng rãi về văn hóa, vượt ra ngoài ranh giới dân tộc, cho nên tổ chức UNESCO đã tôn vinh: Nguyễn Du - danh nhân văn hóa nhân loại (1965).
Nổi bật hơn, Truyện Kiều còn tỏa sáng giữa đời sống ngoại giao hiện đại. Chứng cớ là năm 2000, Tổng thống Hoa Kỳ Bin Clinton trong đáp từ chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam tại Hà Nội đã "vận Kiều khá tế nhị:- Nhân dân Hoa Kỳ vui mừng vì đã đến lúc chúng ta có thể trở thành đổi tác. Như trong Truyện Kiều đã nói/ Sen tàn cúc lại nở hoa, / Sầu dài ngày ngắn, đòng đà sang xuân/ Nay ký ức băng giả về quá khứ đã bắt đầu tan. Những phác thảo của một tương lai ấm áp chung đã bắt đầu hình thành. Cùng nhau chúng ta hãy tận hưởng mùa xuân ấm áp này ". (Báo Nhân Dân 1 8/11/2000).
Đáng chú ý là trước đó 30 năm, sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân (1968), phía Hoa Kỳ có tìm thấy cuốn Truyện Kiều cũ kỹ, nhàu nát trong túi áo của một tử thi - chiến sĩ giải phóng quân trẻ ra trận; thế là tạp chí Washingtonian số tháng 4 của Mỹ đã đăng bài viết hai trang về Truyện Kiều với nhan đề hấp dẫn: " Một tài liệu ly kỳ vừa bắt được tiết lộ tinh thần của địch ", kèm bức minh họa ảnh Tổng thống Jonhson, với lời chú thích: Giá như Tổng thống Jonhson đã đọc Truyện Kiều thì chắc đã không phải lâm vào tình trạng rắc rối như ngày nay "(I).
Hơn 40 năm đã trôi qua, song xem lại lời bình giản dị ấy, người đọc vẫn cảm thấy hợp lý và khoa học. Bởi lẽ dân tộc Việt đã có một nền văn hóa lâu đời hàng ngàn năm đủ sức chống trả trước mọi thế lực phi nghĩa.
Trên đất Pháp, người ta không chỉ dễ dàng tìm đọc nhiều bản Kiều đã được dịch ra tiếng Pháp, mà còn thấy trong cuốn Từ điển các tác phẩm của mọi thời đại và mọi xứ sở (Dictionnaise des oeuvres de tous les temps et de tous les pays - Société dédition de dictonnaires et encyclopédie-paris-1953), Truyện Kiều được giới thiệu trân trọng và chi tiết: " Dựa theo cốt truyện của một tiểu thuyết Trung Hoa, nhưng với thiên tài nghệ thuật kỳ diệu và ngôn từ xuất chúng, Nguyễn Du đã biến cải hoàn toàn tác phẩm gốc và tái tạo một tác phẩm khác với một tinh thần mới, một bản sắc riêng... Có thời kỳ, thà người Việt bang thoát dần ra khói sự lệ thuộc về văn tự viết bằng chợt Hán để trở về với tiếng mẹ đẻ thì công lao vĩ đại của Nguyễn Du là ông đã biết phát huy nghệ thuật chỉ riêng ông có, khiến cho ngôn ngữ dân tộc đã phong phú giàu chất nhạc, được nâng lên tột đỉnh của nghệ thuật, mà trước đó và ca đến hôm nay, chưa có tác gia nào vươn tới được "(2)
Năm 1966, tại khu sơ tán Thái Nguyên, giáo sư Hoàng Xuân Nhị đã hoàn thành vở kịch mang tên Kiều. Tuy đang ở thời chiến, nhưng cũng vào năm ấy, lớp sinh viên văn khóa Tám đã công diễn vở Kiều tại Thái Nguyên, do Hoàng Chương làm đạo diễn.
Gần nhất, năm 2010, tại thành phố Hồ Chí Minh, nữ đạo diễn Hoa Hạ đã dựng vở cải lương Thúy Kiều được công diễn suốt bốn giờ liền tại nhà hát Trần Hữu Trang. Và nhạc sĩ Phạm Duy cũng từng dành nhiều công sức viết bản nhạc dang dở về Truyện Kiều.
Vào đầu năm 2012, nghệ sĩ Lan Hương đã dàn dựng vở kịch hình thể mang tên Nguyễn Du với Kiều và đã công diễn nhiều đêm ở Nhà Hát lớn Hà Nội. Đây là một dõng góp mới và lạ đến với công chúng thủ đô về một tích Kiều cổ điển... Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo từ Paris về nư¬ớc dựng vở thanh xướng lịch về Thúy Kiều mang tên Đinh mệnh bất chợt, gồm 11 chương vào đêm 3 tháng 5-2012 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội.
Năm trước, vào ngày 3 tháng 11 năm 2011, Hội Kiều học - Hội của những người yêu thích Truyện Kiều - đã được thành lập tại Hà Nội, bước đầu đã có trên 350 hội viên từ Nam chí Bắc cùng một số Việt kiều và cả người nước ngoài cũng tình nguyện gia nhập Hội An PGS. Nguyễn Văn Hoàn - một câu chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu Truyện Kiều được Đại hội bầu làm Chủ tịch Hội. Thời gian đã chứng tỏ sức sống dài lâu của truyện thơ bất hủ này trong lòng nhân dân./.
----------------------------------------
Chú thích: 1+2 theo Phan Tử Phùng - Kiều học - Nxb. Thanh Hóa 2011 - tr. 10/21.
Nguyễn Trường Lịch