Không giống với những trống đồng khác, trống Cảnh Thịnh được đúc mô phỏng theo kiểu trống da. Di vật quý hiếm của triều đại Quang Trung hiển hách nhưng ngắn ngủi còn mang những tư liệu đặc biệt trên thân mình.

Trống đồng Cảnh Thịnh


Giá trị đặc biệt Nếu trống đồng truyền thống có những phình, thắt chia trống thành nhiều phần thì trống đồng Cảnh Thịnh lại hoàn toàn khác biệt. Thân trống nở nhẹ ở giữa, trông hệt một chiếc trống da thường thấy. Mặt trống cũng không có hình mặt trời như trống đồng truyền thống. Thay vào đó, chính giữa mặt trống cong vồng lên là hai vòng tròn nổi.

Thân và chân trống liền nhau trang trí nhiều loại hoa văn. Hoa văn trên thân trống chia thành 3 đoạn. Đoạn thứ nhất gồm các hoa văn nhũ đinh, hoa bốn cánh, kỳ lân, hoa, rồng phượng, mây như ý hình tim. Ngoài ra còn có những chữ Hán nêu ngày, địa điểm đúc trống đồng. Đó là nhóm chữ: “Đồng cổ tân chú dẫn thuyết”, “Đông Ngàn huyện Phù Ninh xã Đại Tự”, “Cảnh Thịnh bát niên nhuận tứ nguyệt cát nhật tân chú”.

Đoạn thứ hai cũng trang trí hồi văn, ở giữa khắc chữ Hán. Đoạn thứ ba có bốn nhóm minh văn, bốn nhóm hoa văn, hai nhóm trang trí kỳ lân, rùa. Trống đúc bằng phương pháp khuôn sáp. Trên trống có đôi quai tròn nay đã đứt một chiếc.

Một giá trị đặc biệt khác của trống chính là phần tư liệu - một bài minh dài 272 chữ được khắc trên thân trống. Bài văn này được viết bằng chữ Hán với nội dung nói về bà Nguyễn Thị Lộc, người góp công lập chùa Linh Ứng (Gia Lâm, Hà Nội). Ngôi chùa có tên cũ là chùa Nành này cũng chính là nơi lưu giữ trống trước khi nó được chuyển tới Bảo tàng Lịch sử.

Bài văn khắc rất rõ thân thế của bà Nguyễn Thị Lộc. Bà là vợ của Tổng thái giám Giao quận công thuộc năm Vĩnh Hựu thứ 2 triều Lê (1736). Đời vua Lê Ý Tông, bà đã góp công lập chùa Linh Ứng, cùng với nhiều công đức thờ cúng, tu bổ chùa khác.

Ngoài ra, những dòng chữ Hán khác cho biết trống đúc vào ngày lành tháng 4 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh đời Nguyễn Quang Toản (1800) tại xã Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội).

Trong dòng chảy mỹ thuật thời Tây Sơn

Với kiểu dáng khác lạ so với trống đồng truyền thống cùng những trang trí nổi các con vật trong bộ tứ linh, trống Cảnh Thịnh trở nên độc đáo, phản ánh sự sáng tạo trong nghệ thuật trang trí, kỹ thuật đúc trống cũng như nghề đúc đồng cổ truyền của dân tộc. Trống góp phần làm phong phú thêm bộ sưu tập trống đồng cổ và là nguồn sử liệu có giá trị về lịch sử đương thời.

Mặc dù vậy, trống đồng Cảnh Thịnh không phải trường hợp ngoại lệ. Thời đại Tây Sơn tuy ngắn ngủi chỉ hơn 10 năm trời (1789-1802), nhưng đã để lại một nền mỹ thuật có những dấu ấn riêng. Nền mỹ thuật này phá bỏ những chuẩn mực cũ, đưa những nguyên mẫu đời thường vào nghệ thuật nhiều hơn. Liên hệ với trống đồng Cảnh Thịnh, chúng ta thấy rõ đặc điểm này ở hiện tượng “trống da hóa” trống đồng, cũng như đưa cả một “sơ yếu lý lịch”, một câu chuyện cuộc sống lên trống.

Cũng chính nhờ tinh thần Tây Sơn trong mỹ thuật này, theo nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ, ngày nay chúng ta mới có một kinh thành Phú Xuân với những trang trí nhiều màu sắc. Chúng ta cũng có chùa Kim Liên, chùa Tây Phương nức tiếng. Những ngôi chùa này đều có khu tam bảo đặc biệt. Nét riêng thể hiện ở chỗ khu này dàn ra ba cửa, cửa giữa cao rộng hơn hai bên, tất cả chỉ có một hàng cột. Nhờ đó, sức nặng truyền xuống thông qua bốn cột thẳng hàng giúp chống chọi gió bão. Cũng nhờ thế, các mái tỏa về bốn phía với những đầu đao bay bổng và trở thành sáng tạo lớn cả về nghệ thuật lẫn kỹ thuật.

Theo ông Trứ, các tác phẩm điêu khắc, tạo hình, trong đó có trống đồng Cảnh Thịnh cũng đặc biệt như vậy. Chúng cân đối, tinh thần xã hội rạng rỡ được đưa vào trong mỗi tác phẩm, các họa tiết thoáng đạt, khắc chữ sắc nhọn. Một tinh thần, vẻ đẹp Tây Sơn riêng đã tỏa sáng trong chiếc trống đồng này.