Loading...
|
ĐỌC VĂN CHIÊU HỒN CỦA NGUYỄN DUNgày 06 tháng 08 năm 2015
Trong nền thơ Việt-nam ta từ trước, có một tác phẩm rất độc đáo về đề tài, hầu như là duy nhất, nói đến những người chết, nói đến cái chết dưới trăm nghìn tình thế, chưa có bài thơ nào mà lại tập trung nói đến những hồn người chết như vậy — và thực chất lại là sự ôm trùm rộng rãi những người sống — đó là bài Văn tế thập loại chúng sinh, hoặc gọi là Văn chiêu hồn, của Nguyễn Du. Toát hơi may, lạnh buốt xương khô rồi trong bài thơ gió mưa sấm sét đùng-đùng, trời xâm xam mưa gào gió thé, khi âm huyền mờ mịt trước sau; hình tượng "cảnh buồm mây chạy xé gió đông" dựng lên trước mắt ta một mặt biển sóng cồn lên dữ dội như núi, một chiếc thuyền chạy rất nhanh trong gió cuốn, buồm nghiêng hẳn như sát xuống mặt nước, và thực tế chiếc thuyền ấy đã (câu thơ tiếp theo): Gặp cơn giông tố giữa giòng, Trên cái nền mưa gió sấm sét tối tăm âm huyền ấy của trời đất, thì xã hội cũng đang xáo trộn để đặt trở lại vấn đề, mà đặt một cách không ai ngờ trước được : Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở, chỉ trong phút chốc mà đã lay đổ, ngả vỡ rầm rầm, rồi tên rơi đạn lạc, góc bề bèn trời, vào sông ra bề, mạng người như rác, một lần nữa lại « đạn lạc tên rơi », trôi nước lũ, lây lửa thành...; trong khi trời đất và xã hội đang xóa đi để làm lại, và chẳng biết sẽ làm ra cái gì? Chẳng thấy làm lại cái gì cả, chỉ thấy xóa đi ! thì những con người bị nghiến đi trong cái máy khổng lồ mù và điếc : máu tươi lai láng, xương khô rụng rời, thịt nát máu trôi, nắm xương vô chủ, ngọn lửa ma trơi, tiếng oan văng vẳng, đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc, trăm loài ma mồ nấm chung quanh! Màu sắc thì xám, mờ, và tối; âm thanh thì thét, khóc, và than ; động tác thì thất thều lang thang, lôi thôi bồng giắt...; một lũ «quỉ không đầu đón khóc đêm mưa»; đây là một bức tranh, một tình cảnh rất có tính cách sếch -xpia, trong đó một trái tim lớn, trái tim Nguyễn Du, đang đập. Giá trị tích cực của Văn chiêu hồn chẳng phải ở cái câu ghê gớm đó sao: <Đêm trường dạ tối tăm trời đất! », hiểu nghĩa gần trong đoạn văn, thì là cái đêm của âm phủ chẳng có đầu cuối ; nhưng nếu đã chẳng có đầu đêm, cuối đêm, chẳng có lúc đậm đêm lúc nhạt đêm, chỉ là một màn tối tăm duy nhất, thì làm gì có trời có đất nữa? cho nên cái nghĩa xa của câu thơ là cái đêm của dương gian có đất có trời, cái đêm của xã hội, cái đêm của thời đại . Câu thơ này, bài thơ ấy cỏ giá trị tích cực đối với chúng ta, vì nó triệt đề nói cái tối tăm của những xã hội cũ người bóc lột áp bức người, do đó rút ra một kết luận : là phải triệt để toàn tâm toàn ý xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa của chúng ta; cằn phải diệt cái « đêm trường dạ tối tăm trời đất» ấy của để quốc Mỹ muốn gieo rắc ở những nơi chúng còn tạm chiếm ở miền Nam ; rộng hơn nữa chúng ta là những kẻ tử thù hiện nay của cái «đêm trường dạ tối tăm trời đất» ấy bất kỳ nó còn cố kẻo dài ở đâu trên trái đất này! Chúng ta đây kiên quyết đánh đế quốc Mỹ, vi ta đã giác ngộ chân lý, được Đảng ta giáo dục, và có thể nói thêm : kiên quyết vì chúng ta đã đọc Nguyễn Du, không thể nào quay trở lại với những đen tối, tối tăm mà Nguyễn Du đã nát ruột xẻ gan tố cáo đến tột cùng đau đớn hơn ai hết ! Sống đã chịu một bề thảm thiết, Chúng ta cảm ơn Nguyễn Du trong cái hạn chế ở thời đại minh, đã vượt lên nhìn với cái tầm lịch sử loài người, từ một vị tri thông cảm với quần chúng như vậy. Mặt khác, trong bài Văn này, Nguyễn Du không chiêu tế tất các người chết, mà chỉ chiều tể những người chết cô hồn, những «hồn mồ côi », không có ai cúng lễ, ví dụ không nói đến hồn tất cả các vua chúa, mà chỉ nói đến những vua chúa chết thất thế, thành cô hồn vô tự ; đổi với các giới khác, cũng như vậy. Bốn loại nói đầu là vương gia, công nương, quan văn lớn, quan võ lớn; Nguyễn Du không coi được họ là giai cấp thù địch của quần chúng, mà chỉ mới giơ cái gương lịch. sử cho họ soi, nhưng có thể nói rằng Nguyễn Du cũng đã lấy cái chết má cảnh cáo họ. Trước nhất là loại mưu bá đồ vương; không phải là vua từ trong trứng, mà « trí những lăm cất gánh non sông », đang còn tranh hùng; tự nhiên chúng ta nghĩ đến trường hợp điền hình của Sở Bá vương Hạng Võ, hiền hách vô địch một thời, tranh thiên hạ với Lưu Bang, đến khi vận cùng thất thế đã phải tự đâm cổ chết trên bờ Ô-giang, bọn tướng Hán cắt lấy đầu, và giành nhau năm người được năm phần xác Hạng Vương, chắp lại thấy ăn khớp, và đưa đi lĩnh thưởng ! Giàu sang càng nặng oán thù, Lối hành văn của ta xưa thiếu gãy gọn rõ ràng, lại thêm ở trong thơ phải dìm bớt chữ, làm hại cho mạch lặc, nên đoạn này đã gây ra một cách hiểu là : những người mưu bá đồ vương bị thất bại, bị chết chém, thì hóa làm "đoàn vô tư" và "quỉ không đầu". Theo ý tôi, đoạn này nên hiểu : chữ làm chủ cho cả đoạn là chữ "cô hồn", ngươi mưu bá đồ vương bị chết chém đã hóa thành, một " cô hồn biết bao giờ cho tan ", cô hồn ấy lúc sống giàu sang đã mang oán với hàng vạn người bị chết vì cuộc tranh đoạt núi sông của y; y đã gây ra hàng đoàn người chết không cỏ ai nối dõi: " đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc " là cũng vì y, và " quỷ không đầu đón khóc đêm mưa " là đón y, đón cái cô hồn của y mà đòi đầu, đòi mạng, đòi nợ; cho nên cô hồn của y không thể đi đầu thai đôi kiếp được. ! Một phen thay đổi sơn hà Từ trên lầu cao nhảy xuống chết, đó là một cách quyên sinh của phụ nữ nhà quyền quí, người ta còn nhắc đến cái chết theo lối ấy của nàng Lục Châu ; còn trẫm minh theo dòng nước chảy thì trong các truyện có nhiều. Đau đớn nhẽ không hương không khói Luống ngẩn ngơ trong cõi rừng sim. Những người con gái « thiên kim » ấy, nếu tước bỏ cái địa vị xã hội của họ đi, thì họ chẳng còn làm nên gi tốt; trong Kim cổ kỳ quan có kể chuyên một người con gái đẹp bị một tên công tử lưu manh chòng ghẹo không được, chơi khăm lột mất đôi giày nhỏ như đôi chim sẻ của cô ta chúng ta hãy nhớ tục bó chân của phụ nữ Trung Quốc (nhà quyền quí) xưa; thế là mỹ nhân khóc ròng ờ giữa đường, không đi được một bước nào nữa sống mà bị loạn lặc, mất cương vị xã hội, thì những người con gái ấy cũng chỉ đến «luống ngẩn ngơ trong quãng rừng sim » khóc không biết lối ra; chết trong cảnh loạn lạc, hồn của bọ cũng chỉ đến « luống ngần ngơ trong cõi rừng sim»; chữ cõi biến khoảng rừng thành mênh mang và từ rừng sim thực hầu như thành rừng sim hư, rừng sim để cho những cô hồn lạc vào tha thần; rừng sim chứ không phải rừng khác, vì "đói lòng ăn nửa trái sim" (ca dao), hái sim ăn cho đỡ đói.Ở trên nói " mảnh thân chiếc lá ", ở dưới nói "càng năm càng héo, một đêm một rầu", lá héo đi, lá rầu thêm ; nhưng câu thơ tám chữ này còn vượt phạm vi số kiếp của một người hay một giới người; vô hình trung, nó nói đến số phận của một xã hội dưới một chế độ, chỉ có càng ngày càng tàn suy, khép lại và giam hãm mọi người trong cái lồng chết kéo dài của nó. Đoạn thơ này có thể nói về những công chúa, cũng có thể nói về những đại tiểu thư. Loại thứ tư là tướng võ lớn. Chữ " bài binh bố trận" đã được nhân dân đem ra dùng để nói đùa những trẻ con bày bịện trò chơi choán rất nhiều chỗ; Nguyễn Du đã gọi các tướng võ phong kiến là như thế; họ tham cái ấn nguyên nhung nguyên soái đến có thể đổii mạng mình; trừ nhưng vị đánh giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, còn thi chẳng qua : Rãi thây trăm họ làm công môt người. Tuy nhiên đối với các tướng võ cũng như đối với những hạng mưu bá đồ vương, Nguyễn Du chưa ố ghét bằng đối với các quan văn to. Chúng ta còn nhớ tảc giả Truyện Kiều đa mở màn cho Hồ Tôn Hiến vào sân khấu một cách trịnh trọng oai vệ đến thế nào : Có quan ứng đốc trọng thần Hai câu dưới chất đầy nói chữ, như lá Hồ Tôn Hiến tự xưng và trưng bày tất cả danh hiệu, chức vị của hắn ; càng oai lộ hết ra ngoài lời, thi lại càng: lố bịch; thật là Nguyễn Du cù không cười. Ở đây: Kìa những kẻ mũ cao ảo rộng Hai câu sáu tám đường bệ khoe khoang, nhưng câu bảy mơ đoạn đã đổ trước đi tất ca bằng một cái vái chào ngay « những kẻ mũ cao áo rộng». Giàu sang càng nặng oán thù còn đối với bọn dưới, tác giả nói lên đến mức tố giác nặng nề, cảnh cáo gay gắt: Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm Chung quanh nhà cua bọn quan văn lớn này, toàn nổi lên những sóng mồ nấm. mả của những kẻ chúng giết bao vây lấy chúng! Đối với hạng trên, Nguyễn Du còn cho họ một cái thể thống «thành bại là cơ»(cơ trời); đối với bọn dưới thì chẳng có thề thống gí, chỉ thấy chúng «lầu cao viên hát tan tành còn đâu », chúng đã xa xỉ cao sang hưởng thụ. Đối với hạng trên, chỉ nói : Mà cô hồn biết bao giờ cho tan. Đối vời bọn dưới: Cô hồn thất thểu dọc ngang
Ruột rà không kẻ chí thân Cả một vùng, trong mấy năm liền vẫn cứ còn kể chuyện không phải giai thoại mà xú thoại về đứa con nuôi và thằng cháu gọi cô ruột của mụ tranh «cướp gia tài, kiện cáo không dứt: Sống thời tiền chảy bạc ròng, Những câu thơ Nguyễn Du làm sống lại trong trí nhớ tôi những kẻ làm giàu như thế.— Tôi lại nhớ lại những nhà nho, thầy đồ nghèo ở Nghệ — Tĩnh đeo khăn gói đỏ đánh đường vào tận Bình-định, đến Gò-bồi tìm thăm thầy tôi, ông tú dạy học trò nhỏ nhưng bữa cơm thầy tôi đãi khách. cỏ muối vừng, rau luộc, dưới một ánh đèn tôi tối, —- sao cái xã hội cũ buồn thế ! —- các nhà nho ấy vào Nam làm thầy dạy học, thầy thuốc, thầy địa lý, có khi ca thầy phù thủy nữa biết bắt quyết vẽ bùa ; có người làm cả bốn nghề ấy mà không đủ sống ; thỉnh thỏang lại ngâm với thầy tôi : « Nam nhi đảo thử thị hào hùng !», hoặc « Nhất nhật thanh nhàn nhai nhật tiên!». Nhưng Nguyễn Du ở chỗ này đây : một lần, có một nhà nho như thế chết ở xóm dưới, thầy tôi đi lo tang ma; từ xứ Nghệ khách văn chương ấy « mấy thu lìa cửa lìa nhà», vì không đù tài đề cắm rễ được một chỗ cho sâu, lấy được vợ đẻ được con, nên cứ ở được ít lâu lại đi «tri thân » nơi khác, đúng là «dọc hàng quán phải tuân mưa nắng», trong xã hội cũ, đúng là «bãi tha ma kẻ dọc người ngang» ; những người như vậy có Nguyễn Du thương, có những kẻ như thầy tôi thương. Kia những kề chìm sông lạc suối Trong Văn chiêu hồn, toàn nói về những ngườì chết, nhưng thật ra những người chết rồi ấy vẫn sống, và thật ra là Văn chiêu hồn nói về cảnh đời. Do tín ngưỡng ngày xưa, cha ông ta cho rằng thế phách chết, chứ linh hồn vẫn còn, vẫn cần ăn uống, vẫn biết thương yêu; nàng Cúc Hoa trong truyện Phạm Công Cúc Hoa còn từ dưới mộ hiện lên bắt chấy cho đứa con gái nhỏ của mình, khi hai anh em nó trốn nhà ra đi, đến ngồi bên mộ mẹ.—Măt khác, tôi muốn hiểu rằng trong Văn chiêu hồn những người chết rồi vẫn cứ còn sống, bởi vi họ đã sống uất ức, sống không được thỏa, cho nên chết rồi, họ vẫn cứ như.sống; cha ông ta xưa nói: « oan hồn, hồn hiện », họ còn oan, còn ức, còn chưa giải quyết được cho họ, cho nên họ kêu oan, họ đồi mạng, họ đòi đền! Họ chết đói, cho nên họ còn đòi ăn > họ chết rét, cho nên họ còn đòi ấm; họ chết cực khố, cho nên họ còn đòi sung sướng 1 Đó là món nợ mà xã hội, hay là Trời, là Đất gì đó còn phải trả cho họ !. Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn Những phụ âm "L" đều có trong ba câu thơ (lánh, lặnt lẩn, lôi) thêm hai phụ âm «TH» đi theo hai phụ âm "L" (lần thẩn, lôi thôi) phối hợp với hai vần «ẩn» và hai vần"a" làm cho ba câu thơ có một cấu tạo âm thanh thống nhất, liền nhau như một câu dài; từ lôi thôi lại vẽ ra hình tượng quần áo xộc xệch, người cao kẻ thấp, ho lại bồng bế dắt díu nhau, như dính với nhau thành một thôi ; từ lẩn thẩn vừa nói nhịp chân đi chậm chạp vừa nói tâm trạng thần thơ ngơ ngần. Rõ ràng là họ đi như họ đã từng đi khi còn sống, chỉ có khác là bây giờ họ sợ tiếng gà gáy, báo hiệu khi dương thịnhr mặt trời lên. Không những- họ đi như thế trong không gian mà tác giả còn muốn nói họ đi như thế trong thời gian, «trong mấy muôn năm » họ đã khổ như thế. Nhưng họ bồng trẻ giắt già, họ yêu thương đùm bọc lấy nhau, họ có tình có nghĩa, ho đầy tình ngườì, rõ ràng là họ đang sống ! Tiết đầu thu, lập đàn giải thoát Thực chất là đóng một vai trò đưa đẩy. Nguyễn Du có tin đạo Phật chăng nữa — điều này không thấy rõ lắm trong Truyện Kiều, mặc dầu trong ấy có nỏi nhân duyên v.v.; Nguyễn Du, theo tôi nghĩ, cũng tin đạo Phật như một thứ tôn giáo đã hóa thành của bình dân .trong xã hội, như một thứ triết lý mà một nhà trí thức phong kiến không thề nào không nghiên cứu, suy nghĩ, chứ chưa đến mức thành phật tử, tin đồ ; nhưng giả sử như Nguyễn Du có sùng Phật chăng nữa, thì vấn đề chính đã được diễn đạt bằng mực đen giấy trắng trong Văn chiêu hồn vẫn là vấn đề kiếp người, vẩn đề những con ngươi, hơn nữa, vẫn. là vấn đề đời sống của những con người : tạị sao họ phải chết khổ thế? họ làm thế nào đề sống đây? chứ không phải đặt vấn đề bản thân sự chết, ví dụ như trong văn học Âu châu thường đặt. Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương Theo tín ngưỡng, thì có một vị bồ tát cầm một lá cờ dẫn đường cho chúng sinh, đó là Tiêu Diện đại vương. Trong cả bài thơ này, bàng bạc một yêu cầu, là yêu cầu được dẫn dắt, được đưa đựòrng chỉ lối cho đi, cho ra ; yêu cầu ấy khần thiết đến nỗi, nếu không giai quyết đươcc thật sự, thì cũng đành giải quyết một cách vu vơ vậy! Chúng sinh cần một lá cờ- để trông đó mà bước, thì không có gì hơn là linh kỳ một lá cờ của Tiêu Diện đại vương !Riêng tôi, ngày còn là học trò tôi đã thấy lá linh kỳ ấy ỏ' những; đám « xô giàn » của Hoa thương, lập lên những ngày rằm tháng bảy ở trước Chùa Bà tại Qui-nhơn hơn ba chục năm về trước. Các thày sư tụng kinh, gõ chập cheng trước tượng một người mà đồng bào gọi nôm na là ông Tiêu Diện, bằng giấy rất cao lón, mặt đen rằn ri, trên đầu có hai cái sửng, miệng có một cái lưỡi rất dài, rơi xuống đến chân, và trong tay — tropg tay cằm một linh kỳ ! Đồng bào khảo nhau, đặt giá trước, lúc « xô giàn » đem hóa vàng ông Tiêu Diện, ai mà giật được cải lưỡi ấy đem bán thi sề được trả giá cao, vì cải lưỡi ấy đã có phép ở trong, chữa được bệnh. Ấy cái ông Tiêu Diện đó về sau tôi được biết là ông cầm cờ dẫn đường cho chúng tôi, cho chủng ta ! Thật đau xót biết chừng nào, nếu không phải là buồn cười. Đau xót đến thê lương, đến uất ức, đến chết là cái yêu cầu được dẫn đường, mà không có ai dẫn đường cả, phải đặt ra Tiêu Diện đại vương, và người tưởng tượng ấy lại cứ « nhơn nhơn » như là thật ! Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo Nguyễn Du đã nói rõ đây là «vâng lời» của tập tục mà lập đàn chẩn tế; nhưng trước cái đàn đã lập, thi người đứng khấn là cả một tấm lòng thành, một tấm ỉlòng thương: Của có chi bát cháo nén nhang Diễn đạt người chết như họ đang còn sống thật, Nguyễn Du đối với họ cũng thật ân cần như đối với những con người biết xúc cảm : « Của có chi... .Gọi lả... Giúp cha làm của.. », và nếu của sơ sài tượng trưng quá, thì xin «.phép thiêng biến ít thành nhiều » ! Nguyễn Du xin lỗi mãi về sự it ỏi quá của bát cháo, trước hằng hà sa số những cô hồn đói ăn trong bao đời: « Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu! ». Ớ đây, cái tính giai cấp trong bản thân Nguyễn Du vô tình buột ra lời, hầu như tác giả không đề ý, tác giả đã bị gia đinh, xã hội giáo dục về tôn ti trật tự phong kiến đến thành một thiên tính: Ai đến đấy dưới trên ngồi lại Dù là cô hồn rồi, vẫn cứ còn kẻ dười người trên, ngồi theo trật tự dưới trên ; nhưng ở dưới, Nguyễn Du lại nói: Kiếp sinh ra thể biết là tại đâu Ở thời đại ấy, trước ta ngót hai trăm năm, Nguyễn Du thành thật không bỉểt tại đâu mà đàn bà lại đặc biệt khổ tập trung khổ đến thế. Rộng hơn, Nguyễn Du không biểt tại sao mà xã hội khổ đến thế. Bây giờ chúng ta không trách Nguyễn Du về sự mù mờ ấy, bởi vì Nguyễn Du còn sinh trước cả cách mạng tư sản dân quyền (1789) ở châu Âụ. Còn trái tim lớn của Nguyễn Du, một tấm lòng chứa được bấy nhiêu tinh thương nhân loại ! Tinh thương ấy có chỗ xô bồ, lẫn lộn như đối với vài loại kẻ thuộc giai cấp bên trên ; nhưng phần lớn, căn bản là dành cha những người bị cực khố, oan ức, đói rẻt, đau đờn, từ người bị bọn vua quan bắt lính, đến ngưòi mắc oan ờ tù rạc thân, đến ngưòi hành khất « cũng một kiếp người », từ người đẻ non đến con bé chết yểu, từ người đứt giây rơi xuống giểng chết đến người bị cọp ăn... Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng v-v... Ta hãy thử đọc mà xem, đọc như một lời tố cáo cái xã hội hiện nay ở miền Nam của Mỹ—Diệm, Mỹ — Khánh, Mỹ—Ký và Mỹ — gì nữa; ôi! quả khứ bóc lột áp bức vẫn chưa chịu chết một cách dễ dàng, vẫn còn cố mọc thêm đầu mới sau khi đã chết; những tội ác của Mỹ — ngụy, những cảnh khổ của đồng bào ta dưới ách của chúng còn gấp mấy lần ở trong Văn chiêu hồn. Chúng ta là những hảo hán, những chiến sĩ đi đánh bóng tối của -đế quốc Mỹ cái « đêm trường dạ tối tăm trời đất» của đế quốc Mỹ cố kéo dài cũng không thể kéo dài được mãi; đấu tranh gay go, quyết liệt, ghê gờm, nhưng nhất định «đấu tranh này là trận cuối cùng! » trên đất nước miền Nam. Thắng lợi của chúng ta là điều mơ ước hàng trăm năm trước của Nguyễn Du; Nguyễn Du đòi hỏi ánh sáng ! ánh sáng! | Tham quan ảo 3D
Thư viện phim tư liệu
Bộ đếm lượt truy cậpLiên kết Website |