3. Tiếp cận văn hoá học:
Chúng tôi thử bổ sung cho các cách tiếp cận vấn đề xã hội trong Truyện Kiều bằng phương pháp văn hoá để góp phần nhìn nhận vấn đề xã hội của tác phẩm hoàn chỉnh hơn. Cũng giống như cách tiếp cận thi pháp học, chúng tôi không dùng khái niệm hiện đại như “xã hội” hay “xã hội phong kiến” vẫn được giới nghiên cứu sử dụng để mô tả xã hội Truyện Kiều mà chủ trương xuất phát từ chính các khái niệm đã được Nguyễn Du dùng để thể hiện cảm nhận của ông về xã hội. Mặc dầu cuối cùng kết quả đạt được vẫn phải là nêu lên được quan niệm dù là tự phát (mà chúng tôi gọi là cảm nhận) của Nguyễn Du về xã hội, song việc tránh dùng từ “xã hội” trong quá trình miêu tả sẽ giúp ta thoát khỏi sự mặc nhận vế sự tương đồng trong cách nhìn xã hội của Nguyễn Du với chúng ta, do đó, ta có thể tìm ra đặc trưng riêng của cách Nguyễn Du nhìn xã hội.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng một loạt những khái niệm của riêng thời đại ông để diễn đạt sự cảm nhận về xã hội rất riêng của mình. Thuộc về nhóm thứ nhất phải kể đến những khái niệm mang tính chất tâm linh như “cõi người ta”, “địa ngục ở miền nhân gian” mà Nguyễn Du dùng để chỉ cái xã hội khủng khiếp đáng sợ mà ông đang chứng kiến. Mở đầu Truyện Kiều , nhà thơ giới thiệu không gian nơi sẽ diễn ra câu chuyện về cuộc đời và vận mệnh bi thảm của nhân vật tài sắc Thúy Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Xưa nay ta thường hay chú ý đến mệnh đề “tài mệnh ghét nhau” mà bỏ qua khái niệm “cõi người ta”, có lẽ cõi người ta ở đây dùng như “cõi dương”, “dương gian” trong thế đối lập với “cõi âm”, “âm phủ”, “địa ngục” (Văn chiêu hồn: Cõi dương còn thế nữa là cõi âm) tức là phản ánh mô hình thế giới của con người thời xưa. Cõi âm do con người tưởng tượng ra, là rùng rợn, có Diêm vương, có quỉ sứ đầu trâu mặt ngựa, có vạc dầu và biết bao hình phạt hãi hùng đe dọa con người đến nỗi người xưa hay gọi hồn người chết trở về dương thế. Câu chuyện gọi hồn Khuất Nguyên đã từng là đề tài cho một bài thơ nổi tiêng của Nguyễn Du. Cõi dương, nơi con người đang sống dẫu cực khổ vẫn là nơi đáng sống. Thế nhưng với Nguyễn Du “cõi người ta”, cõi dương lại có nhiều dấu hiệu của cõi âm đáng sợ. Cõi người ta có khác chi “địa ngục”. Vì thê Nguyễn Du còn diễn tả cái cõi người ta ấy bằng một khái niệm khác đây ân tượng “địa ngục ở miền nhân gian”'
Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
Miền nhân gian là cõi sống của con người nhưng nó được tiếp nhận như là một thứ địa ngục. Nó hàm chứa một cảm nhận tinh tế về sự thù địch của cõi nhân gian đối với vận mệnh của con người. Trên bình diện ý thức, Nguyễn Du e dè, né tránh gia đình họ Hoạn vì đó là nhà Lại bộ Thượng thư. Nhưng trên bình diện vô thức, Nguyễn Du lại tỏ ra khá quyết liệt. Chính khái niệm “địa ngục” được Nguyễn Du dùng (dưới dạng vô thức hay hữu thức?) để chỉ không gian gia đinh Hoạn bà và Hoạn Thư:
Mẹ con trò chuyện lân la,
Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
"Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
Cho về bên ấy theo đòi lầu trang
Lĩnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu.
Người xưa phân biệt “cõi âm” và “cõi dương”, “địa ngục” và ‘thiên đàng” với cảm quan tôn giáo rõ rệt Họ cảm thấy, song song tồn tại với cuộc đời này còn có một thế giới khác, tuy mắt thường không nhìn thấy nhưng sự tồn tại của chúng là sự thật. Đây là cơ sở để xuất hiện những tưởng tượng về Diêm vương trong truyện thơ Nôm bình dân, những cảnh địa ngục nơi quỉ sứ hành hạ, trừng phạt con người theo lệnh của Diêm vương tuỳ theo tội trạng mà con người đã phạm phải trong cuộc đời nơi dương thế. Dùng hình ảnh “địa ngục” để chỉ gia đình Hoạn Thư, Nguyễn Du đã nói dùm người xưa nỗi hãi hùng trước các thế lực trần thế đầy quyền lực và luôn gieo rắc tai hoạ. Ở một chỗ khác, tuy không thấy Nguyễn Du dùng chữ “địa ngục” song ông nói đến cảnh bọn sai nha ồn ào hỗn độn cướp phá của cải, đánh đập người nhà Kiều và dùng chữ “đầu trâu mặt ngựa” ( Người nách thước kẻ tay đao - Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi). Hẳn là lúc này nhà thơ đang nghĩ đến hình ảnh bọn quỉ sứ đầu trâu mặt ngựa dưới âm phủ của Diêm vương mà rất nhiều chùa Việt Nam ở miền Bắc Việt Nam có miêu tả. Nhà thơ đã nghĩ đến địa ngục khi kể về bọn Khuyển Ưng của nhà họ Hoạn bắt cóc Kiều(19) thì hẳn ông cũng nghĩ về địa ngục khi tả bọn sai nha xông vào nhà Kiều.
“Cõi người ta” trong cách nghĩ của Nguyễn Du còn là nơi ngự trị của những thế lực hoang dã đầy đe dọa... Từ thời nguyên thuỷ, qua các kinh nghiệm sống được tích luỹ, những loài ác thú là biểu tượng trực tiếp của sức mạnh thiên nhiên đối lập với con người. Cho đến mãi thời hiện đại, trong thơ vẫn có thể bắt gặp những ấn tượng về rừng thiêng đại ngàn (Quang Dũng: Chiều chiều oai linh thác gầm thét - Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người). Các nhân vật anh hùng trong truyện cổ tích thường có chiến công đánh thắng, tiêu diệt các loài ác thú để đem lại cuộc sống yên lành cho nhân dân. Lẽ ra “cõi người ta” phải là nơi nương tựa, trú ngụ yên ổn của con người, là nơi con người được bảo vệ nhưng trong sự cảm nhận của Nguyễn Du lại là nơi “miệng hùm nọc rắn” (Thân ta ta phải lo âu. Miệng hùm nọc rắn phải đâu chốn này), là nơi con người “kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi”. Trong bài thơ chữ Hán Phản chiêu hồn, Nguyễn Du dùng biểu tượng “ngư long” và “sài lang” ăn thịt người để chi các thế lực chà đạp lên con người. Viết Truyện Kiều, những biểu tượng ấy trở lại trong đầu ông qua lời Tam Hợp đạo cô nói về hành trình của cuộc đời Kiều:
Hết nạn nọ đến nạn kia,
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.
Trong vòng giáo dựng gươm trần,
Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi
Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
Trước hàm rồng cá gieo mồi thuỷ tinh
Trong tâm thức Nguyễn Du, cuộc đời xung quanh ông mang dáng dấp của xã hội thời buổi hỗn mang, dã man, “chưa thuần hoá”. Còn con người thì bị động, bé nhỏ, làm mồi cho những thế lực phi nhân tính đáng sợ. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng có cái nhìn tương tự khi ông viết về bọn quan lại tựa như thú dữ ăn thịt người ngọt sớt như đường.
Chưa hết, cuộc đời ấy còn là nơi hoạt động của ma quỉ. Ma quỉ là gì, chưa ai trông thấy bao giờ và sẽ không bao giờ nhìn thấy. Nhưng trong trí tưởng tượng của người xưa, đó là các thế lực có thật chuyên làm hại người. Người chết hoá thành ma quỉ, chúng lảng vảng khắp nơi gây tai hoạ cho con người. Nàng Kiều sống giữa cuộc đời nhưng lại bị ma quỉ ám ảnh, dẫn dắt như lời Tam Hợp đạo cô nói về cuộc đời nàng:
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.
Ma đưa lối quỉ đưa đường,
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Tất nhiên trên thực tế không có ma quỉ. Ma quỉ chỉ là cách cảm nhận và cắt nghĩa của người xưa về các lực lượng có thật hoạt động một cách bí ẩn, vô hình trong cuộc sống xã hội. Ấn tượng hãi hùng về xã hội đã tích tụ trong tâm thức nhà thơ và chuyển thành các cách thể hiện độc đáo.
Nguyễn Du tổng hợp các hệ biểu tượng truyền thống của văn hoá bác học và của văn hoá dân gian để diễn tả cảm nhận của ông về xã hội. Trước hết là hệ biểu tượng của văn hoá bác học. Văn hoá bác học đối lập gay gắt thiên nhiên và xã hội. Có điều, các biểu tượng truyền thống của nhà nho về xã hội chỉ nhằm đối lập môi trường quan lại đầy rẫy âm mưu thấp hèn với thiên nhiên trong sạch, tức là các biểu tượng xã hội nhìn từ góc độ đạo đức- chính trị. Thuộc về nhóm này là những hình ảnh quen thuộc của văn học bác học miêu tả sự nhớp nhúa, bụi bặm của cõi đời như cõi trần, cõi hồng trần, bụi hồng, (kiếp) phong trần, bể trần. Nhưng trong Truyện Kiều, các biểu tượng về xã hội này không còn mang sắc thái thể hiện nhân cách nhà nho nhìn cuộc đời bụi bặm để quyết tâm lánh đục tìm trong. Dẫu sao, với nhà nho vốn có một vị thế nhất định trong bậc thang xã hội (trong tứ dân, nhà nho đứng đầu) thì khi lánh cuộc đời này, treo mũ từ quan, nhà nho vẫn có thể sống được, dẫu cho là cuộc sống đạm bạc. Còn trong Truyện Kiều, nàng Kiều chỉ có thể và phải sống lăn lộn trong vũng bùn của cuộc sống, không thể lựa chọn khác được dù biết nó là đáng ghét (chút thân quằn quại vũng lầy). Các biểu tượng đã vẽ lên một tâm trạng lo âu sợ hãi đến khắc khoải của nhân vật. Không phải là nơi diễn ra các âm mưu quỉ quyệt xảo trá để tranh giành quyền lực chính trị, cõi trần là nơi chà đạp thân phận con người, nơi đó, con người hết sức bé nhỏ, cô đơn giữa không gian rợn ngợp: trời thẳm đất dày, đất bằng nổi sóng, bình địa ba đào, đất thấp trời cao, trời thắm vực sâu. Tất cả những biểu tượng nói trên không xa lạ đối với văn học Trung Quốc nhưng đã không được sử dụng trong nguyên tác Kim Vân Kiều truyện (có thể là vì thể loại tiểu thuyết không cho phép). Hẳn đây cũng là một yếu tố khiến cho nguyên tác đã không tạo ra được hiệu quả tiếp nhận như Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Như để bù đắp cho sự thiếu hụt của các chi tiết cụ thể về các thế lực xã hội-những thế lực mà ông, phần thì phải né tránh, phần thì do đặc trưng thể loại (truyện thơ) không thể miêu tả được- Nguyễn Du đã dùng các biểu tượng như “quê người”, “đất khách quê người”, “chân trời góc bể”, những biểu tượng cũng không được dùng trong Kim Vân Kiều truyện, để diễn tả tâm trạng sợ hãi, lo âu trước xã hội... Như đã nói ở trên, Trần Đình Sử đã có quan sát rất lý thú về “không gian lưu lạc” trong văn hoá trung đại và Truyện Kiều: “Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tiểu thuyết lưu lạc”, ông viết “Không gian lưu lạc là không gian mà mọi mối liên hệ của con người đã bị đứt tung, con người không còn nơi bấu víu, trở nên lênh đênh, vô định, trôi dạt, lơ lửng. Nguyễn Du đã láy đi láy lại cái hình ảnh “mặt nước cánh bèo”, “nước trôi hoa rụng”, “chiếc bách sóng đào". Ông viết tiếp: “hoa trôi bèo dạt” là một mẫu gốc được kết đọng trong tâm hồn người phương Đông bởi lặp đi lặp lại vô vàn trường hợp con người bị bứt ra khỏi gia đình. Nhưng mặt khác với không gian này người đọc lại cảm thấy hết sức thân quen, gần gũi, bởi đó là cảm thức về một không gian xã hội thù địch với sự sống của con người. Không ai có thể sống yên ổn trong đó...”.
Hiển nhiên, đây không phải là những khái niệm do Nguyễn Du sáng tạo ra mà chúng đã được sử dụng khá phổ biến trong văn hoá trung đại cả ở Trung Quốc lẫn ở Việt Nam. Nhưng cần phải nhấn mạnh đến sự khác biệt căn bản trong cách tiếp nhận các biểu tượng gốc này. Thông thường thơ của nhà nho nói về sự tha hương lưu lạc gắn liền với tâm trạng nhớ nhà, mong về quê. Thực chất đó là sự thể hiện nhân cách đạo đức, thể hiện thái độ chán ghét danh lợi của nhà nho. Trong khi đó, Truyện Kiều thể hiện cảm nhận của con người buộc phải sống trong lòng cuộc sống xã hội ấy, phải trực tiếp trải nghiệm chính môi trường tha hương ấy. Phải đích thân thấm thìa thân phận bé nhỏ, nhục nhã thám hại của con lươn “chút thân quàn quại vũng lầy”, của con ong cái kiến, của “thân cát đằng” thì mới có cảm nhận về xã hội như Truyện Kiều. Nói cách khác, để hiểu sâu sác việc Nguyễn Du sử dụng các mẫu gốc cần phân tích điểm nhìn của tác giả đối với các biểu tượng gốc ấy. Nguyễn Du chọn góc nhìn không phải từ tư thế của nhà nho tha hương đi làm quan mà từ tư thế của những nạn nhân xã hội. Mặt khác, cũng nên gắn sự phân tích tác phẩm với hoàn cảnh hiện thực lịch sử thời đại Nguyễn Du sống. Nếu chúng ta đặt Truyện Kiều vào bối cảnh đời sống xã hội cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, sẽ thấu hiểu nội dung thời đại ẩn chứa đằng sau các biểu tượng gốc về không gian lưu lạc.
Nhiều thiên ký sự bằng chữ Hán viết trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX đem lại cho chúng ta một ý niệm rùng rợn về xã hội thời đó. Đây là thời kì tăm tối, đầy những tai ương chướng hoạ đối với người dân dưới đáy xã hội. Một xã hội trong đó, quyền sống của người dân không được tôn trọng, bảo vệ; một xã hội trong đó, nạn đói rét, thiếu thốn, nạn giết chóc không được kiểm soát đã tự do hoành hành; một xã hội trong đó bất công tràn lan khắp nơi, kẻ giàu xa hoa phung phí còn người nghèo khó bị đẩy đến bước đường cùng... Danh sách những khía cạnh đen tối như thế có thề tiếp tục khá dài trên cơ sở các áng văn xuôi chữ Hán tả thực cuộc sống nước ta giai đoạn này. Có thể so sánh để chỉ ra những song hành giữa Truyện Kiều và văn xuôi chữ Hán đương thời trong việc miêu tả xã hội. Trong Tang thương ngẫu lục có chuyện về tên Đặng Mậu Lân cậy thế của chị là Đặng Thị Huệ để làm càn (trong nhà y nuôi hàng trăm đầy tớ, cho đội mũ đeo gươm ra chợ uống rượu rồi đánh người vô tội) có nét gì đó gần với chuyện Hoạn Thư cậy thế con nhà quan Lại bộ thượng thư nuôi bọn Ưng Khuyển trong nhà, sai đi bắt cóc người, đốt nhà, hành hạ người vô tội vạ. Vũ trung tuỳ bút lại chép tình trạng loạn lạc cùng cực của xã hội Việt Nam thời ấy “Thậm chí những kẻ đã cáo quan về nhà quê, chỉ làm đơn từ xui kẻ kiện cáo, gây thói điêu ngoan. Có kẻ ra làm quan mà chỉ tối mắt về ăn của đút, gây thói gian tham. Lại còn những thói dâm bôn vô sỉ, hẹn hò nhau ở trên sông, cướp trộm tung hoành, bắt cóc người buôn bán. Phong tục đến thế là cùng! Tuy ví như sông bến đổi dời, cũng không tả hết được tình trạng” (Áo mặc). Tưởng như ta đọc những lời tóm lược cảm nhận của Nguyễn Du về xã hội trong Truyện Kiều qua cảnh bọn sai nha, bọn Ưng Khuyển lộng hành. Xã hội loạn lạc, tính mệnh con người không được bảo đảm, cuộc sống bấp bênh, tình trạng đói kém tràn lan đến nỗi người ăn thịt người. Phạm Đình Hổ chép: “Các cụ nhà nho làng ta ngày xưa, như ông nho sinh Phạm Diên Bá, thường nói chuyện với ta rằng: đương lúc loạn lạc, ông đi đường về tỉnh Đông, có vào nghỉ nhà hàng cơm bên đường, thấy mùi thịt rất tanh, trên mặt nước bát canh, thịt nổi sao lên như hình bán nguyệt. Hỏi người bán hàng cơm thì họ nói đấy là thịt lợn lòi. Khi ăn đến nửa chừng, thấy có con rận chết ở trên mặt bát, mới biết là thịt người, vội vàng chạy ra móc cổ thổ ra, Ôi đời xưa bảo rằng thú ăn thịt người cũng chưa đến nỗi quá tệ như thế” (Vũ Thái Phi).
Nhân đây, thiết nghĩ có lẽ nên tiếp nhận chi tiết “sẵn thây vô chủ bên sông” trong Truyện Kiều như là sự phản ánh tình trạng loạn lạc, người chết không phải là chuyện quá hiếm của thời đại loạn. Đặc biệt phải liên hệ sự tương đồng nào đó giữa không gian lưu lạc trong Truyện Kiều với tình trạng tha hương, lưu tán của hàng ngàn người nông dân từ hàng trăm làng bị tan vỡ cuối thế kỉ XVIII. Phạm Đình Hổ chép tiếp: “Hồi loạn năm Canh Thân, Tân Dậu (chỉ các năm 1740-1741 - TNT), tỉnh Hải Dương ta chịu hại về việc binh đao đến mười tám năm, ruộng đất hầu thành rừng rậm. Giống gấu chó, lợn lòi, sinh tụ đầy cả ngoài đồng. Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn... Bấy giờ làng ta bỏ hoang rậm rạp ngập mắt. Đến khi loạn lạc đã yên, người làng mới từ chốn kinh đô lục tục kéo về, chặt tranh phá cỏ, đi tìm nhận lấy nền nhà cũ, thu nhặt những xương tàn đem chôn. Nay ở phía nam đầu làng vẫn còn có một khu nghĩa trang, hàng năm cứ đến rằm tháng bảy, người làng đem cỗ bàn ra cũng viếng” (Vũ Thái Phi). Theo Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập I, thì năm 1741 ở Đàng Ngoài có tới 1730 làng phiêu tán gần hết, số làng xã phiêu tán vừa là 1961 làng, hơn 1/3 tổng số làng của Đàng Ngoài. Làng phiêu tán là làng bị tan vỡ vì nhiều lý do. Dân làng kéo nhau đi tha phương cầu thực, tạo thành lực lượng hùng hậu cho nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân(22) Ngoài ra, những bất công xã hội mà Nguyễn Du chứng kiến ngay trong gia đình mình cũng góp phần làm sâu sắc hơn ấn tượng về xa hội. Vũ trung tuỳ bút chép chuyện Nguyễn Khản, anh Nguyễn Du, mê hát, gặp khi con hát tang trở, vẫn cho tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc. Nguyễn Lộc đã có lí khi liên hệ chi tiết này với cảnh Hồ Tôn Hiến bắt Kiều phải đánh đàn hầu rượu ngay cả khi Kiều còn đầm đìa nước mắt vì cái chết của Từ Hài. Trong bối cảnh loạn lạc ấy, những biểu tượng truyền thống như “chân trời góc biển”, “đất khách quê người” được Nguyễn Du nhuộm thấm bằng những xúc cảm đau đớn nhất, xót xa nhất, dường như chúng mang trong mình những trải nghiệm của chính ông. Chỉ riêng cuộc chia tay của Kiều với gia đình để đi cùng Mã Giám Sinh vào nơi đất khách quê người, Nguyễn Du đã tả bằng những từ ngữ xót xa nhất:
Thôi con còn nói chi con,
Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người.
Còn gì đáng sợ hơn là cả sống và chết đều ở quê người.
Từ nay góc bể chân trời,
Nắng mưa thui thủi quê người một thân
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.
Sự cô đơn giữa cõi đời mênh mông, xa lạ thật hãi hùng.
Như là một hệ quả tất yếu của cảm nhận về xã hội xa lạ, đề tài biệt li, tống biệt trong thơ ca cổ trung đại cũng là mảng đề tài khá phổ biến và đã để lại nhiều bài thơ rất xúc động. Cảm giác cô đơn khi từ biệt người thân được nhân lên gấp bội vì cảm giác bao la của không gian đất nước, vì linh cảm về sự mong manh của ngày tái ngộ, vì sự xa lạ chốn quê người. Ai cũng biết bài thơ nổi tiếng của nhà thơ đời Đường, Vương Duy (701-761) Tống Nguyên Nhị sử An Tây (Tiễn Nguyên Nhị đi sứ An Tây):
Vị thành triêu vũ ấp khinh trần,
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
(Tại Vị thành mưa buổi sáng thấm làn bụi nhẹ,
Nơi quán khách màu liễu xanh non.
Xin anh hãy cạn thêm một chén rượu nữa)
Khi đã ra khỏi cửa Dương Quan đi về phía Tây không có ai là cố nhân nữa).
Những bài thơ như vậy đem lại cảm giác cô đơn, buồn nhưng không bi đát, không bế tắc, không có cảm giác về thân phận bé nhỏ như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong ca dao dân ca, cũng có nỗi niềm tha hương và tâm trạng biệt li. Ta bắt gặp nỗi lòng đứa con đi xa quê: Chiều chiều ra đứng ngõ sau -Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. Ta cũng bắt gặp cảnh biệt li và nỗi sợ về một khả năng khó gặp lại của đôi lứa: Mấy khi rồng gặp mây đây - Để rồng than thở với mây vài lời - Nữa mai rồng ngược mây xuôi - Biết bao giờ lại nối lời rồng mây. Hoặc là nỗi nhớ thương vời vợi trước một không gian rợn ngợp: Ngày ngày em đứng em trông - Trông non, non ngất trông sông, sông dài -Trông mây mây kéo ngang trời - Trông trăng, trăng khuyết, trông người, người xa. Nhưng các ám ảnh mang tính xã hội trong các câu ca dao này là khá mờ nhạt: người bình dân không nói đến trong ca dao về sự đối nghịch của xã hội với thân phận mặc dù chính họ đã khái quát “xẩy nhà ra thất nghiệp”.
Trong Truyện Kiều, đóng góp riêng của Nguyễn Du thể hiện ở chỗ nhà thơ đã đưa một sự đánh giá ngầm định đối với xã hội vào trong các biểu tượng truyền thống diễn tả cảm nhận xã hội của người xưa. Không đơn thuần chỉ là không gian mênh mông xa ngái, là sự cô đơn rợn ngợp của con người khi rời gia đình để bước vào vùng không gian đất khách quê người, các môtip “đất khách quê người” trong bàn tay Nguyễn Du đã làm nổi bật sự đối lập gay gắt giữa thân phận con người và xã hội, chỉ rõ những bất trắc và hiểm hoạ chờ đợi con người một khi nó rời khỏi không gian gia đình để rơi vào vùng không gian xa lạ, góc bể chân trời. Đặc biệt phải nói đến những biểu tượng được nhà thơ sử dụng để diễn tả thân phận bé nhỏ, trôi dạt, đau khổ, không có quyền tự quyết của con người (cụ thể là của nàng Kiều) trong chốn “quê người” ấy: sống chết - cả khi sống lẫn lúc chết đều diễn ra ở quê người (sống nhờ đất khách thác chôn quê người); con ong cái kiến bé nhỏ (con ong cái kiến kêu gì được oan)', hạt cát bé nhỏ (đành thân cát dập sống vùi), cánh bèo trôi theo sóng vỗ (từ con lưu lạc quê người, bèo trôi sóng vỗ chốc mười mấy năm); bèo bọt mong manh dễ tan vỡ (rằng tôi bèo bọt chút thân); cánh bèo và ngọn cỏ bồng trôi nổi không định sở (bình bồng còn chút xa xôi); cây bồ liễu yếu ớt mong manh (nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai; phận bồ từ vẹn chữ tòng); thân lươn hèn hạ, bẩn thỉu (thân lươn bao quản lấm đầu; chút thân quằn quại vũng lầy) cát đằng - một loại dây leo (tuyết sương che chở cho thân cát đằng; cát đằng chút phận con con; cũng may dậy cát được nhờ bóng cây); đằng la - cũng một loại dây leo phụ thuộc ( trước hàm sư tử gửi người đằng la); trôi nổi (mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi), trôi giạt (hoa trôi bèo dạt đã đành), chìm nổi (để con bèo nổi mây chìm vì ai). Đó là một số biểu tượng quen thuộc cả với văn học viết bác học và cả văn học dân gian và gần gũi với tâm thức người Việt sống trong văn hóa nông nghiệp. Nguyễn Du đã cô đặc cảm nhận về xã hội của con người Việt Nam ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII cộng với kinh nghiệm sống tha hương của bản thân.
Một hệ quả tâm lí của sự đối lập giữa không gian “gia đình” và “xã hội” là sự hoang mang, bất ổn, lo lắng của con người khi thay đổi từ không gian gia đình sang không gian xã hội. Hiếm có một tác phẩm nào lại diễn tả cảnh li biệt với nỗi buồn sâu thẳm, những dự cảm bi đát nhất về những gì đang đón đợi con người ở phía trước, tại nơi tha hương, đất khách quê người như là Truyện Kiều. Hiếm có một nhà thơ nào thời trung đại lại theo dõi và đau đớn đến thế cùng nỗi lòng con người trong chia li như là Nguyễn Du. Kiều mới rời nhà theo Mã Giám Sinh tới nhà trọ mà nỗi lòng của cả nhà đã như rớm máu và cả đất trời như u uất:
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm.
Trời hôm mây kẻo tối rầm,
Rầu rầu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương.
Đây là những lời rớm lệ của Vương ông nói với Mã Giám Sinh khi tiễn đưa con gái theo một người xa lạ đi đến một chốn xa lạ:
Xót con lòng nặng chề chề,
Trước yên ông đã nằn nì thấp cao;
“Chút thân yếu liễu tơ đào,
Dớp nhà đến nỗi dấn vào tôi ngươi.
Từ đây góc bể bên trời,
Nắng mưa thui thủi quê người một thân
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng
Cảnh này trong nguyên tác chỉ được tả vắn tát “Vương ông thấy vậy năn nỉ Mã Giám Sinh, thôi thì từ đây trở đi, chút phận bồ liễu ở chốn tha hương, trăm sự nhờ người che chở. Ơn ấy lão chẳng dám quên. Nói tới đây hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng”. Dễ thấy sáng tạo của Nguyễn Du là ông đã đưa ra những hình ảnh đối lập đầy cảm xúc giữa một bên là con người (Kiều) bé nhỏ, mong manh, yếu đuối, đơn độc (thân cát đằng, thui thủi) với một bên là “góc biển chân trời”, là “quê người” xa lạ, đầy gian nguy, khó khăn (qua các biểu tượng “nắng mưa, sương tuyết”). Cuộc chia li tiếp ngay sau đó vốn bị bỏ qua trong nguyên tác thì lại đã được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm sự cô đơn của nhân vật giữa một thế giới đầy xa lạ, thù địch. Những biểu tượng gió mây vần vụ, cõi hồng trần, những đối lập màu sắc (bạc, đen), những cảm giác xa xăm, hơi may, trời thu đã diễn tả một cách tổng hợp bối cảnh vũ trụ, không gian và thời gian chia ly, cảm giác của người trong cuộc và người đứng quan sát... làm nổi bật mâu thuẫn giữa cuộc sống của con người và xã hội đầy đe doạ hãi hùng:
Đùng đùng gió giục mây vần,
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Trông vời gạt lệ phân tay,
Góc trời thăm thẳm ngày ngày đăm đăm.
Nàng thì cõi khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
Nhà thơ Tản Đà khi chú giải đoạn thơ này đã băn khoăn “Bạc phau cầu giá là tả cành sang mùa rét, mà trên cầu giá (băng) đóng trắng phau. Song ngờ mùa thu làm gi đã có giá? Cho nên trong bản của cụ Bùi Khánh Diễn lại chua là dùng điển cầu ô thước, càng không thấy hợp nghĩa”. Thực ra ở đây Nguyễn Du đã huy động tất cả mọi biểu tượng có sẵn để truyền tải cảm xúc lạnh lẽo, cô đơn, đáng sợ và đáng thương của nhân vật theo lôgich nghệ thuật chứ không theo lôgich thực tế. Ông khai thác các biểu tượng truyền thống “hồng trần”, “gió mây”, “góc trời”, “cõi khách”, ‘Vi lô”, “hơi may” (Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng - Chinh phụ ngâm), “trời thu” đã từng được thơ cổ phương Đông dùng diễn tả cảm giác của con người bị bật khỏi gia đình và bị ném vào xã hội một cách không thương xót. Đây là các biểu tượng hình thành trong nền văn hoá nông nghiệp, rất gần gũi với tâm thức tiếp nhận của người dân trong xã hội nông nghiệp. Đặt đúng chỗ, với cách hiệp vần, láy âm, đối xứng, các câu chữ có vẻ sáo mòn lại kết hợp với nhau tạo nên một liên kết nghệ thuật có sức mạnh to lớn, làm rung cảm tâm hồn người đọc bao thế hệ.
Trong Truyện Kiều có nhiều cuộc chia li khác nhau, nhưng các cuộc chia li đều rớm lệ, đều đầy dự cảm về bất trắc, đầy lo lắng chỉ có thể cảm nhận được nếu chúng ta hiểu sự đối lập “gia đình” và “đất khách quê người” trong tâm cảm người xưa. Cuộc chia li của Thuý Kiều - Kim Trọng ngầm chứa một cái nhìn rất bi đát về tương lai của mối tình giữa hai người. Kẻ ra đi lo lắng về những bất trắc có thể xẩy ra với người ở lại, dường như nếu thiếu người thân thiết, con người không thể chống chọi với hoàn cảnh. Vì vậy, Kim Trọng dặn dò nàng Kiều:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Còn Kiều cũng thương xót cho người yêu lênh đênh trên đường thiên lý “nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm” với bao lo lắng cho chàng. Chúng ta có thể cảm thông được tâm trạng nặng nề của đôi lứa. Xưa, phương tiện giao thông và đường xá không như ngày nay. Khoảng cách một vài trăm cây số đã là một trở ngại to lớn. Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác kể chuyện ông ra Thăng Long chữa bệnh cho Vương tử Trịnh Cán, xuất phát từ Vinh ngày hai mươi mà mãi đến ngày ba mươi mới đến trạm cầu Thịnh Liệt (Thanh Trì). Một hành trình người hiện đại mất có 8 giờ tàu hoả hay 6 giờ ô tô buýt đã từng làm mất của người Việt cách đây hơn hai trăm năm cả chục ngày ròng rã (240 giờ). Mà đó là chuyến đi của người được triều đình tổ chức, có đủ phương tiện thuỷ, bộ, có nhà trạm ăn nghỉ, có sự đón tiếp dọc đường, có người bảo vệ. Nếu người dân thường thì có lẽ một chuyến đi như vậy hẳn còn gian khổ và kéo dài hơn nhiều. Đó là chưa kể đến những khó khăn, nguy hiểm, trộm cướp, giặc dã dọc dường thiên lý. Có người trách Nguyễn Du vô lý vì Kim Trọng vừa lên đường thì cơn gia biến xẩy ra với gia đình Kiều, sao không cho người đi gọi chàng quay trở lại để chàng bỏ tiền cứu gia đình Kiều, để đến nỗi phải tan vỡ tất cả. Nhưng nếu ta hiểu đường xa, thông tin liến lạc theo nghĩa được tồ chức về mặt xã hội hoàn toàn thiếu vắng, phương tiện giao thông khó khăn, lấy đâu ra tiền để thuê ngựa đuổi theo, mà có đuổi theo chắc gì đã gặp, vì Kim Trọng được gọi về gấp để hộ tang chú chứ không phải đi du lịch mà ung dung thong thả được. Có lẽ vì thế mà không ai nghĩ ra phương án tìm theo Kim Trọng để chàng quay lại giúp đỡ.
Nếu so sánh với Kim Vân Kiều truyện, dễ thấy nguyên tác không quan tâm nhiều đến nỗi lòng của nhân vật khi sắp chia ly mà chỉ kể vắn tắt cuộc chia ly như một sự kiện bắc cầu cho sự kiện khác. Thậm chí là không cho thấy Kiều lo lẳng, xót xa như thế nào mà trái lại, Kiều của nguyên tác còn an ủi Kim: “Vừa nói, chàng vừa giẫm chân than thở: “Ôi! Vừa mới gặp nhau đã lại xa cách, lòng này thực nát như tương! Thuý Kiều nghe xong cảm thấy lạnh toát cả người, nhưng sợ chàng Kim quá não về cảnh biệt ly nên nàng phải kiếm lời an ủi: “Chàng ơi, thiếp thường nghe nói: Nam nhi chí ở bốn phương, nhẽ đâu lại để mối tình nhi nữ ràng buộc? Thôi thì chàng hãy sớm liệu ra đi, rồi kíp trở về là tốt hơn hết. Chẳng ngờ nàng vừa nói đặng mấy câu thì hai dòng lệ đã không tài nào giữ nổi. Chàng Kim thấy vậy cũng khóc nức nở. Giữa lúc hai người đương khóc thì tên thư đồng lại đến gõ cửa giục đi ngay. Chàng Kim đành phải gạt lệ, tạm biệt cùng nàng, tất tưởi chạy về bên nhà, thấy ngựa đã đóng yên cương đứng chờ trước cửa, rồi chàng cùng với thân phụ sang thẳng Liêu Dương”. Cảm nhận về sự hãi hùng của “đất khách quê người” trong nguyên tác bị rút xuống mức tối thiểu, nếu như không muốn nói là vắng bóng. Tất nhiên, trong xã hội phong kiến xưa, cuộc đời ở đâu cũng thế cả, nói như Nguyễn Du trong một bài thơ chữ Hán thì cả Trung Hoa và nước ta đều giống nhau:
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão,
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân.
(Từng nghe nói Trung Hoa ai cũng no ấm,
(Không ngờ) Trung Hoa cũng có người đói rách như thế này).
(Thái Bình mại ca giả)
Nhưng quan tâm đến cuộc đời đầy thù địch với số phận con người hay không, quan tâm đến mức độ nào lại là vấn đề liên quan đến tầm tư tưởng và chủ nghĩa nhân đạo của tác giả.
Cuộc chia ly Kiều - Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu tả khá xúc động. Bối cảnh của cuộc chia ly là dự cảm đầy lo lắng của Kiều về sự trả thù có thể có của vợ Thúc Sinh, một phụ nữ chẳng phải tay vừa:
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
Ở vào khuôn phép, nói ra mối dường.
E thay những dạ phi thường,
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
Mà ta suốt một năm ròng,
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào.
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
Hoặc là trong có làm sao chăng là?
Trong nguyên tác, cuộc chia ly được miêu tả rất vắn tắt, thiếu hẳn cảnh tiễn đưa đầy lưu luyến và lại càng thiếu vắng ám ảnh về đất khách quê người. Kiều muốn tiễn Thúc Sinh ra khỏi cửa nhưng thấy Thúc ông và những người làm công đến tiễn nên phải dừng lại sau tấm bình phong. “Chàng trao hành lý cho xe ngựa rồi mới quay lại bảo nàng: Thôi ta đi đây, nàng nên bớt sự phiền não. Nàng cũng không đáp lại được một tiếng nào, hai bên chỉ trả lời nhau bằng đôi dòng nước mắt mà thôi. Thúc Sinh quay lại bái biệt phụ thân và chúng bạn rồi lên ngựa đi về hướng nam...”. Còn Nguyễn Du đã dụng công miêu tả cuộc chia ly bằng nhiều thi liệu truyền thống để tô đậm ám ảnh đất khách quê người trong lòng người ly biệt. Đây không hẳn là câu chuyện tài năng hay học vấn: Những bài thơ Đường được dẫn dụ trong Truyện Kiều không phải là cái gì quá xa lạ đối với một người Trung Quốc có học vấn trung bình. Sự khác nhau chủ yếu do quan niệm, do ý thức nghệ thuật. Không bằng lòng với sự mô tả sơ sài của nguyên tác, Nguyễn Du đã huy động hàng loạt thi liệu cổ với nhiều motip “kinh điển” để diễn tả nỗi buồn chia biệt, kẻ ở người đi, ghi lại nỗi lòng của đôi lứa, của những người thân, bè bạn trước khi rơi vào vùng không gian “đất khách quê người”:
Tiễn đưa một chén quan hà,
Xuân đình thoắt đã dạo ra Cao đình.
Sông Tần một giải xanh xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan.
Mỗi câu thơ là một hình ảnh, một thi liệu liên quan đến sự chia rẽ, biểu tượng chia rẽ, đến vùng không gian mênh mông đầy bất trắc mà con người sẽ lọt vào. Cảm nhận về sự thù địch của đất khách quê người đối với thân phận của con người đã được Nguyễn Du diễn tả bằng cách dồn nén thật nhiều “kinh nghiệm nghệ thuật” về chia ly mà ông đã tích luỹ được khi đọc thơ cổ Trung Quốc, đặc biệt là Đường thi. “Quan hà” là cửa ải và sông, biểu tượng của sự cách trở. “Xuân đình” là chỗ hợp vui song “Cao đình” được rút ra từ câu thơ cổ “Cao đình tương biệt xứ' (Cao đình là chỗ tương biệt) để nói về sự chia biệt, về sông Tần, ý kiến của các nhà chú giải không thống nhất. Tản Đà cho rằng đây là sông Tần Hoài, chỉ con đường đi thực của Thúc Sinh về miền quê Giang Tô . Đào Duy Anh lại giải thích sông Tần tức là Tần Thuỷ, một nhánh của sông Vị Thuỷ thuộc tỉnh Thiểm Tây của Trung Quốc “là nơi đời xưa người ở Tràng An thường tiễn biệt nhau”. Có lẽ nên hiểu đoạn thơ này nằm trong mạch diễn tả tâm trạng, nỗi niềm của con người trong ly biệt và không nên câu nệ đi tìm gốc của các địa danh. Nguyễn Du bị ám ảnh bởi cảm nhận rùng rợn về xã hội và do đó lòng ông dường như cũng rung lên cùng nỗi niềm của con người môi khi từ biệt người thân để rơi vào chốn địa ngục trần gian ấy. Tản Đà đã chú giải thật tỉ mỉ nhưng đồng thời lại đã không chú ý đến dụng tâm của Nguyễn Du về mặt này. Do vậy mà nhà thơ, sau khi giải thích thật đúng một số điển tích mà Nguyễn Du sử dụng, lại đã không tinh tế khi phê phán Nguyễn Du không theo logich hiện thực. Ông viết về hai câu thơ “Sông Tần... Cành Dương Quan” như sau: “Hai chữ sông Tần trong câu đây, các bản hết thẩy đều dẫn câu “dao vọng Tần Xuyên” ở bài ca Vị Tây. Theo ngu kiến thời chữ “Tần” này không phải là Tần Xuyên mà là con sông Tần Hoài. Nguyên ở đất nước Tàu, con sông Tần Xuyên thời chảy ở mạn tỉnh Cam Túc; con sông Tần Hoài thời chảy ở mạn tỉnh Giang Tô. Giang Tô tức là miền quê của Thúc Sinh, huyện Vô Tích thuộc tỉnh đó. Cho nên hai chữ “sông Tần” đây không phải là nói lời văn hư phiếm, chính là trỏ thực vào con đường đi của Thúc Sinh mà nói. Sáu chữ câu trên đây, với tám chữ câu dưới, lấy ý hai bài thơ mà tiếp nhau một chữ “liễu”. Người đời xưa tiễn biệt, thường hay bẻ cành liễu để tặng nhau, cho nên trong các thơ tống biệt, thường có nói đến liễu. Bài Hoài thượng biệt hữu nhân (Trên sông Hoài biệt người bạn) của Trịnh Cốc rằng: “Dương tử giang đầu dương liễu xuân - Dương hoa sầu sát độ giang nhân - số thanh phong địch ly đình vãn - Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần" Bài Tống Nguyên Nhị sứ An Tây (Tiễn Nguyên Nhị đi sứ nước An Tây) của Vương Duy rằng: “Vị thành triêu vũ ấp khinh trần -Khách xá thanh thanh liễu sắc tân - Khuyến quân cánh tận tam bôi tửu - Tây xuất dương quan vô cố nhân".Bài thơ sau này, người đời sau trong khi tống biệt, thường hay dùng để hát, gọi là “ba dịp Dương Quan”. Cũng bởi thế mà hai chữ Dương Quan mới có thể đặt vào trong câu đây, nghĩa nó nên nhận như hai chữ biệt ly mà thôi. Chớ cứ thực thời Dương Quan là một cái cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây, tức là hết địa giới nước Tầu về mạn Tây Bắc, với con sông Tần Hoài ở tỉnh Giang Tô là chỗ quê Thúc Sinh xa cách nhau lắm lắm. Cho nên hai câu văn của tác giả, “rằng hay thì thật là hay” mà cũng là một lối bắt nạt vậy”. Tản Đà đã không nhất quán ở chỗ ông giải thích Dương Quan theo nghĩa ước lệ, còn sông Tần lại được giải thích theo nghĩa thực trong khi lẽ ra phải xem tất cả các địa danh này chỉ được Nguyễn Du dùng theo nghĩa ước lệ, cốt chuyển tải cảm nhận về nỗi đau ly biệt, đến lượt mình, cảm nhận về ly biệt lại bắt nguồn từ cảm nhận rất bi đát về sự thù địch của đất khách quê người đổi với số phận con người. Không khôi phục lại cảm nhận riêng của Nguyễn Du về đất khách quê người như là kiểu cảm nhận xã hội độc đáo của ông, ta sẽ bỏ qua chiều sâu của cảm nhận về ly biệt trong Truyện Kiều:
Dường như có một ngoại lệ trong Truyện Kiều là cuộc chia ly của Kiều -Từ Hải. Ta đã nói đến cảm quan bi đát của con người trong Truyện Kiều khi họ chia ly. Nhưng Kiều và Từ Hải chia ly trong một tâm trạng khác hẳn. Từ Hải ra đi dứt khoát, mạnh mẽ, kiên quyết.
Nửa năm hương lửa đang nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong...
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi.
Kiều ở lại cũng không lo lắng và nhiều dự cảm bi đát như các cuộc chia ly trước.
Giải thích như thế nào đây về sự khác biệt này? Theo chúng tôi, câu trả lời cũng phải tìm trong tương quan giữa con người và xã hội. Khác với tất cả các nhân vật khác, Từ Hải xuất hiện với sứ mạng đội trời đạp đất, sứ mạng thay đổi xã hội. Từ Hài không phải là mẫu người sinh ra để nằm trọn trong khuôn khổ của xã hội, chấp nhận mọi thân phận mà xã hội ấy áp đặt. Nói cách khác, Từ Hải không tồn tại trong “đất khách quê người”, “chân trời góc bể” như nàng Kiều. Chàng sống trong một không gian có tính chất lãng mạn, một thứ không gian mang sắc thái không tưởng xã hội. Từ Hải là người giang hồ hiệp khách “đội trời đạp đất ở đời", "Giang hồ quen thú vẫy vùng - Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”. Chàng đứng cao hơn, bên trên nó, cải tạo nó, làm chủ nó, chống lại nó, đập phá nó, cho dù chưa biết đập phá rồi sẽ đi đến đâu: Người trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương không theo thói tục thông thường ham mê nhan sắc mà quên lý tưởng cao xa
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
Chàng ra đi là để chinh phục nó, chàng gạt bỏ mọi sự uỷ mị yếu đuối dễ có thường tình vì chàng vững tin vào khả năng thực hiện ý nguyện phi thường của mình (chầy chăng là một năm sau vội gì):
Nàng rằng: “phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường,
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Do vậy mà chàng ra đi thật dứt khoát, nhẹ nhàng ( Quyết lời dứt áo ra đi -Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi) và bản thân Kiều được cổ vũ bởi ý chí và khí phách của Từ Hải, cũng không phải thể nghiệm một cảm giác nặng nề thông thường như trong các cuộc chia ly khác. Nguyễn Du chỉ tả nỗi nhớ nhà của Kiều và sự ngóng đợi Từ Hải trong thời gian chàng đi xa:
Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
Khí phách ra đi này chúng ta lại bắt gặp trong những con người xê dịch, say sưa tìm kiếm phiêu lưu của văn học hiện đại, trong thơ Mới, nơi những con người hát bài “Tống biệt hành” thời hiện đại, ra đi tìm lý tưởng theo “tiếng gọi lên đường”:
Năm năm theo tiếng gọi lên đường,
Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.
(Giây phút chạnh lòng- Thế Lữ)
Những người muốn vượt ra khỏi không gian tù túng, chật hẹp, bế tắc của xã hội xưa cũ truyền thống, ra đi để vượt thoát khỏi nó chứ không phải để trở thành nạn nhân của nó.
Từ Hải đã thực hiện lý tưởng của mình. Việc chàng cho “Ba quân chi ngọn cờ đào - Đạo ra Vô Tích đạo vào Lâm Truy” chính là hành động nhằm xoá bỏ những thế lực cụ thể đã từng tạo ra cái “đất khách quê người” ghê sợ đối với thân phận con người. Tuy Nguyễn Du chưa thể hình dung rõ ràng cái xã hội mà Từ Hải đã lập nên là gì, song bằng trực giác nghệ thuật tinh tường của một nghệ sĩ vĩ đại, Nguyễn Du đã cảm thấy đó quyết không phải là nơi “chân trời góc bể”, “đất khách quê người”, “địa ngục ở miền nhân gian”, “miệng hùm nọc ran”, “cõi người ta”, “chốn bụi hồng” mà đó là một xã hội có công lý, có trật tự. Triều đình của Từ là nơi duy nhất dưới gầm trời này, con người có quyền “chọc trời khuấy nước mặc dầu”, có điều kiện thực hiện được giấc mơ công lý, trừng trị những kẻ xấu xa, độc ác, giúp con người ân trả oán đền. Viết một truyện thơ, Nguyễn Du không thể tả tỉ mỉ tổ chức xã hội cùa Từ Hài, mà có lẽ nếu viết văn xuôi ông cũng không thể tả xã hội đó. Một xã hội có màu sắc không tưởng. Nhưng làm thế nào để duy trì xã hội tốt đẹp ấy tồn tại, đó là câu hỏi mà Nguyễn Du cũng như thời đại ông không thể giải đáp được. “Triều đình riêng một góc trời” của Từ Hải bị dẹp. Xã hội lại trở lại như cũ, Kiều lại cảm thấy cảnh “Chân trời mặt bể lênh đênh, Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào”.
Không tưởng xã hội là một hiện tượng có thực của văn học trung đại. Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, cũng có một vài tác giả nói đến một thế giới khác lạ với tiêu chí khác biệt về không gian và thời gian tồn tại đâu đó bên cạnh thế giới của con người, na ná như những môtip không tưởng xã hội của văn học phương Đông truyền thống. Trong Tang thương ngẫu lục, Phạm Đình Hổ có ghi lại câu chuyện về một nhà sư vào hang Thần Cốc ở núi Phật Tích (núi Thầy). Đi sâu vào hang này độ hai ba ngày, trải qua cảnh xương người chồng chất, giường ghế mắc áo nhiều không kể xiết. Gặp một con sông, nhìn sang bờ bên kia, thấy trời lờ mờ sáng, chợ búa người vật không khác gì ở nhân gian. Ông lái đò bảo đó là chợ âm phủ. Nhà sư định tiến đến xem nhưng một con rắn to bằng cái vựa nằm chắn ngang đường nên đành quay về. Ra khỏi hang thì tính từ khi ra đi được một tháng hai ngày. Lại còn chuyện về Thành Đạo tử do Nguyễn Án chép: Thành Đạo tử đi chơi núi Thu tinh, cầm đuốc soi vào hang, giữa chừng đuốc tắt không biết lối ra. Trong hang có những tuỷ đá nát nhẽo như bùn, ăn thấy mùi thơm ngon và khỏi được đói. Sau lâu thấy có một cái kiệu đi qua kẻ hầu người hạ rộn rịp, ngồi trong kiệu là một người bạn đã chết từ trước. Người bạn cho biết đây là chỗ cửa ải người và ma chia cách nhau. Ra khỏi hang về nhà mới biết rằng người nhà tưởng ông chết, để tang sắp mãn hạn. Đây là các chuyện có dạng tương đồng ở mức độ nào đó với chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, sống một năm ở tiên cảnh bằng 80 năm dưới phàm trần (xem Truyền kỳ mạn lục). Các môtip này có sự tương đồng nhất định với những suối Đào hoa, núi Thiên Thai của văn học Trung Quốc, nói lên những mộng mơ về một thế giới khác, một cuộc sống khác, nơi thời gian và không gian được đo bằng thước đo khác hẳn thế giới con người. Đó là niềm khao khát tìm kiếm của con người một không gian và thời gian khác hẳn cuộc đời hiện thực đáng chán ghét trước mắt. Tư tưởng xã hội của các nhà văn nhà thơ Việt Nam thời trung đại đã dừng lại ở những quan niệm mang tính chất không tưởng. Người ta không biết tìm cách nào để tổ chức một xã hội tốt đẹp ngay trên mặt đất này, đành phải nhờ vào trí tưởng tượng.
Cảm nhận về xã hội trong Truyện Kiều còn thể hiện qua sự đối lập giữa không gian gia đình và không gian xã hội. Những nỗi nhớ nhà, nhớ Kim Trọng của Kiều cần được nhìn nhận không đơn thuần chỉ là tình cảm của người con có hiếu, có tình nghĩa sâu sắc mà còn là kết quả của sự tích tụ tâm trạng cô đơn giữa nơi đất khách quê người. Nhớ nhà ở đây, xét chiều sâu tâm trạng, thực chất là sự vượt thoát, một cách vô thức, ra khỏi không gian xã hội đầy đe doạ mà nó đã bị ném vào để trở về với một không gian yên ổn quen thuộc, nhằm xoa dịu nỗi cô đơn và sự sợ hãi trước xã hội thù địch:
Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.
Trước khi làm những câu thơ đầy tâm trạng lưu lạc ấy, Kiều đã hướng lòng mình về quê hương, về người thân. Đây là lần đầu tiên xa nhà, ở lầu Ngưng Bích, Kiều nghĩ về chàng Kim trước hết, sau đó là nghĩ về cha mẹ. Điều này có lôgich riêng: Kiều vừa mới bán mình, tức là không thể thực hiện được lời nguyền ước với chàng Kim nữa, một điều rất đau lòng đối với người phụ nữ xưa. Nỗi ám ảnh đau lòng đó đã hiển hiện lên trước hết:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ!
Bên trời luống hãy bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Các lần nhớ nhà về sau, cha mẹ (cũng tức là gia đinh) được nàng nghĩ đến trước hết. Trong những giây phút nhớ nhà, Kiều nhập vào không gian gia đình bằng cách thả hồn mình theo những áng mây, bằng cách gửi mình vào giấc mộng. Diễn tả nỗi nhớ nhà thực chất là diễn tả những cách vượt thoát về mặt tinh thần ra khỏi không gian xa lạ, thù địch nơi “cõi người ta”, “quê người đất khách” để tìm về với không gian gia đình thân thiết
-Mỗi tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.
-Đoái trông muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa
Chúng tôi không nghĩ như một nhà nghiên cứu rằng không gian gia đình “êm đềm trướng rủ màn che” đối với Kiều lại là một không gian giam hãm tù túng cần vượt thoát. Các trường đoạn nhớ nhà, cũng như tâm trạng ly biệt, là những đóng góp mới của Nguyễn Du so với nguyên tác. Chúng đều là sự kết tinh những kinh nghiệm sống của con người Việt Nam thời xưa trong một xã hội được tổ chức theo một cung cách có thể tạo nên một sự đối lập gay gắt giữa gia đình và xã hội. Không gian mà con người khao khát vượt thoát chính lại là không gian xã hội, không gian đất khách quê người. Nhưng cái gia đình vốn là nơi trú ngụ êm ấm cho con người ấy đã bị xã hội đập phá tan tác:
Láng giềng có kẻ sang chơi,
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình
Hỏi ông ông mặc tụng đình,
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà nhà đã rời xa,
Hỏi chàng Vương với cùng là Thuý Vân
Đều là sa sút khó khăn,
May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi
Bị đập phá, huỷ hoại theo nghĩa đen:
Nhà tranh vách đất tả tơi,
Lau treo rèm nát, trúc gài phên thưa.
Một sân đất cỏ dầm mưa...
Thành thử, bi kịch là ở chỗ cái hình ảnh mái ấm mà Kiều đêm đêm thả hồn theo những giấc mơ chỉ còn là ảo ảnh của quá khứ mà chính nàng không hề biết. Giống như tình cảnh những người chinh phụ thuở nào trong bài thơ Lũng Tây hành cùa Trần Đào đêm đêm mơ đến gặp những người chinh phu mà chẳng hay biết họ đã thành những đống xương trắng phơi nơi biên ải. Một xã hội không chốn dung thân cho con người. Những mái ấm mà Kiều tìm cho mình trên chặng đường hành trình mười lăm năm lưu lạc cùng Thúc Sinh, cùng Từ Hải đều bị đập phá tan tành.
Trong Truyện Kiều, dường như còn có một khoảng không gian nữa tách biệt, độc lập với “đất khách quê người”, tạo thành một chốn trú ngụ như một thứ “ốc đảo” thanh bình cho con người. Đó là cửa Phật. Cửa Phật vốn vẫn là nơi tiếp nhận những người cần nương náu, chạy trốn khỏi cuộc đời nghiệt ngã. Vì thế mà nơi tu hành của Giác Duyên được gọi là “Chiêu ẩn am” (ngôi chùa dung nạp những người ở ẩn), có một thời gian nào đó, Kiều cảm thấy yên ổn dưới mái chùa “Gửi thân được chon am mây - Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong”. Thế nhưng, trong cách nhìn của Nguyễn Du, cửa Phật vẫn không thể là nơi trú ẩn an toàn cho con người lương thiện. Vì éo le thay, cửa Phật vẫn phải đứng trong một không gian xã hội xác định. Quan Âm các đứng ngay trong vườn nhà Hoạn Thư. Do đó không nên phê phán Kiều đã không thành tâm đi tu. Nhất Hạnh khi bình luận câu thơ Phật tiền thảm lấp sầu vùi đã nhận định: “Trên phương diện hình thức thì có thể gọi là tu nhưng trên phương diện nội dung đó chưa phải là tu. Lấp thảm vùi sầu hay chuyển hoá thảm sầu? Chuyện này không thể che dấu được” về hai câu thơ Gác kinh viện sách đôi nơi, Trong gang tấc lại gấp mười quan san, ông viết: “Hai câu này tố cáo trong đáy lòng Kiều vẫn có ước muốn gặp Thúc Sinh chứ Kiều chưa quyết tâm đi tu. Vì vậy đời của Kiều còn khổ” Làm sao Kiều có thể yên tâm đi tu trong cái Quan Âm các vốn đứng giữa một nơi mà nàng nhận thấy là “miệng hùm nọc rắn”? Giả sử Kiều quyết đi tu thì điều gì sẽ xẩy ra?
Liệu xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn với nàng? Thật khó mà hy vọng như vậy. Mặt khác, không phải chỉ có những người lương thiện đặt chân vào nhà chùa. “Ở đây cửa Phật là không hẹp gì”. Vãi Giác Duyên đã nói với Kiều như vậy. Cửa Phật vốn rộng mở cho mọi người. Đây là chỗ mạnh và cũng là chỗ yếu của nhà chùa. Chiêu Ẩn am của Giác Duyên lại là nơi đi về của cả những kẻ bán thịt buôn người như Bạc bà: Có nhà họ Bạc bên kia, Am mây quen lối đi về dầu hương. “Người quen cõi Phật chen chân xọc" Câu thơ của Hồ Xuân Hương hình như để chỉ bọn người phàm tục này khi họ xuất hiện chốn thiền môn. Nào ngờ cũng tổ bợm già, Bạc bà học với Tú bà đồng môn. Như thế thì Chiêu Ẩn am cũng không thể che chở cho Kiều, vẫn có những thế lực đen tối nhòm ngó vào cái vòm trời bình yên bé nhỏ ấy, khiến cho con người không nơi ẩn nấp. Chính là họ Bạc sẽ đẩy Kiều trở lại vũng bùn nhơ của nhục nhã một lần nữa. Không thể tìm được chốn nương thân trong một xã hội thù địch với con người. Có lẽ đó là kết luận của Truyện Kiều. Nhà chùa định xây dựng một thế giới riêng, thoát ly khỏi xã hội. Đó cũng lại là một cảm hứng không tưởng, ảo tưởng, lãng mạn không khác gì ý định của nhà nho ẩn dật để lánh đời. Đó là khi Kiều tự trầm và, một cách thần kỳ, được vãi Giác Duyên vớt từ dưới sông lên nhờ biết trước qua lời tiên tri của Tam Hợp đạo cô. Một cảnh trí thuần tuý thiên nhiên, các dấu hiệu của nhân sự, của xã hội đã bị thanh lọc gột rửa hoàn toàn, một khung cảnh gió yên bể lặng, trăng thanh gió mát làm lòng người từng trải cuộc đời cảm thấy thư thái, yên lòng:
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt, muối dưa chạy lòng.
Bốn bể bát ngát mênh mông,
Trào dâng hôm sớm, mây lồng trước sau.
Nạn xưa trút sạch làu làu...
Cảnh trí đó cũng phảng phất không khí của một thứ Thiên Thai, Đào Nguyên mà người xưa vẫn mơ tưởng, nơi thanh lọc mọi bụi bặm của cõi trần. Nguyễn Du dường như muốn cất dấu Kiều vào một thảo am thật xa xã hội loài người. Ông tả con đường quanh co, gai góc mà Giác Duyên dẫn cả nhà đi tìm Kiều:
Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
Bộ hành một lũ theo liền một khi.
Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
Quanh co theo giải giang tân,
Khỏi rùng lau, đã tới sân Phật đường.
Có lẽ đó là sự thể hiện cửa vô thức nhà thơ: Muốn yên ổn thì hãy lánh xa xã hội. Nhưng để sống một cuộc sống của con người thì làm sao lại có thể xa lánh xã hội được? Cũng vậy, có thể đặt câu hỏi: tại sao lại bắt đầu từ đây, từ khúc sông Tiền Đường này, Nạn xưa trút sạch làu làu? Ta chỉ biết là do số phận, duyên phận, cơ duyên. Rút cuộc Nguyễn Du cũng không thể tìm ra một thế giới bình yên với cơ sở hiện thực thật thuyết phục cho các nhân vật của mình. Kiều đã trở về với Kim Trọng khi mà chàng Kim đã có địa vị trong quan trường, một địa vị có thể bảo đảm sự yên ổn cho Kiều. Nhưng liệu có gì bảo đảm rằng những cô gái khác tài sắc, tài tình như Kiều trước đây mười lăm năm không tiếp tục rơi vào thân phận của Kiều? Chẳng có gì bảo đàm cả. Giải pháp “tu tâm” không thể giúp cho con người thôi không nhìn xã hội như là “đất khách quê người”, “chân trời góc bể”. Trừ phi con người sống thoát ly hoàn toàn khỏi xã hội, sống chỉ với “cầm thú".
Như vậy, cuối cùng lại phải trở về với xã hội, lại phải tìm các nguyên tắc sống giữa người đời. Xã hội là một tập hợp những con người cụ thể có quan hệ qua lại theo một thứ đạo, một thứ nguyên tắc, cách thức nào đó. Nguyên tắc này mang tính cụ thể lịch sử. Con người sống trong bất kỳ một xã hội nào cũng xử lý quan hệ với nhau theo một cách thức nào đó mà họ cho là tối ưu, bảo đảm cho một trật tự hoà điệu, ít nhất là theo quan niệm riêng của thời đại cụ thể ấy.
Ở phương Tây, từ sau cách mạng tư sản Pháp (1789), nguyên lý tổ chức xã hội theo pháp luật ngày một chiếm ưu thế so với các cách tổ chức xã hội truyền thống. Tiêu chí của xã hội hiện đại là công nghiệp hoá, nhà nước pháp quyền, con người cá nhân. Nhà nước pháp quyền bảo đảm cho quan hệ giữa các cá nhân diễn ra trên cơ sở “khế ước”, tức là trên cơ sở của sự thoả thuận chung theo tinh thần “hợp đồng” giữa mọi cá nhân trong xã hội ấy. Vì theo Hợp đồng nên tất cả mọi thành viên xã hội đều bình đẳng như nhau trong việc thực hiện hợp đồng xã hội này. Các cá nhân được đánh giá, xác định giá trị trên cơ sở thực hiện Hợp đồng xã hội, tức là luật pháp.
Trong xã hội Việt Nam, cho đến tận cuối thế kỉ XIX, xã hội hay là tương quan giữa con người với con người được hình dung theo một cách khác. Quan hệ giữa người và người được chế ước, điều chỉnh bằng những nguyên lý đạo đức mang tính chất tự giác mà nổi bật nhất là nhân nghĩa. Thiết chế nhà nước hoạt động nhằm duy trì và bảo vệ sự tuân thủ ở mỗi thành viên xã hội các nguyên lý đạo đức ấy. Là một tác phẩm ra đời trong thời trung đại, Truyện Kiều cũng có những khái niệm căn bản này.
Nhân: Có hai lần chữ “nhân” được nhắc đến trong Truyện Kiều:
- Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
- Đã nên có nghĩa có nhân.
Câu đầu tiên do linh hồn Đạm Tiên lý giải vì sao Kiều được giải thoát khỏi kiếp bạc mệnh để trở lại hưởng thụ cuộc sống hạnh phúc như người bình thường. Kiều đã bán mình để lấy tiền chuộc cha nên trọn đạo hiếu. Kiều đã khuyên Từ Hải ra hàng nên cứu cho hàng ngàn binh lính của triều đỉnh và của Từ Hải khỏi chết vì giao tranh, do đó mà đạt đạo nhân. Câu thứ hai của họ Đô kể về chặng đời Kiều cho đến khi gặp Từ Hải và báo ân báo oán, được trọn vẹn nhân nghĩa, được xa gần ngợi khen. Nhân được hiểu ở đây là thương người, là lòng hy sinh, lòng vị tha phù hợp với đạo hiếu sinh. Tổng hợp lại, lòng thành của nàng, đức hiếu, đức nhân của nàng đã được Trời biết đến và Trời quyết định thay đổi số phận cho Kiều. Đây là cách quan niệm điển hình của người thời trung đại về tương quan xã hội và ứng xử xã hội cần phải có, nên có để tạo ra một cuộc sống hạnh phúc.
Nghĩa: Chữ “nghĩa” xuất hiện 18 lần trong Truyện Kiều.
- Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
- Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong.
- Tình sâu mong trả nghĩa dày.
- Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
- Đôi ta chút nghĩa đèo bồng.
- Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng.
- Tiếc thay chút nghĩa cũ càng.
- Nàng rằng nghĩa nặng nghìn non.
- Mưu sâu cũng giả nghĩa sâu cho vừa.
- Lấy tình thâm giả nghĩa thâm.
- Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau.
- Gọi là giả chút nghĩa người.
- Quả thương chút nghĩa đèo bồng.
- Tình xưa ơn giả nghĩa đền
- Đã nên có nghĩa có nhân.
- Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi
- Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi
- Nặng vì chút nghĩa bấy lâu.
Trong các lần xuất hiện này của nghĩa ta thấy chỉ có một lần nó được dùng không đúng với cách hiểu thông thường. Đó là khi Kiều gặp lại Hoạn Thư, nàng dùng chữ nghĩa để ám chi sự ăn miếng trả miếng, sự trả thù mà nàng sắp dành cho Hoạn Thư. Tất cả các trường hợp còn lại đều nhất trí diễn đạt quan hệ tương thân tương ái giữa người và người trên cơ sở tự giác, vô tư, không tính toán. Nghĩa là việc nên làm, việc cần làm (Nghĩa giả, nghi dã) đối với người khác. Nghĩa và tình gắn chặt với nhau, chuyển hoá lẫn nhau. Trước hết là nghĩa với cha mẹ, rồi nghĩa với người yêu, rồi nghĩa với mọi người (Vãi Giác Duyên có nghĩa với Kiều). Tình yêu trai gái chuyển thành tình nghĩa, thành món nợ tinh thần phải trả. Sự cứu giúp người cũng là việc nghĩa. Còn người nhận được hành động nghĩa cử từ người khác, chịu nghĩa của người khác thì dù không có một điều khoản pháp lý nào quy định, nhưng tự thấy mình phải trả nghĩa. Nói cách khác, nghĩa là quan hệ đạo đức tự giác, tương hỗ, quan hệ hai chiều, có đi có lại đặt trên cơ sở tinh thần chứ không đặt trên cơ sở vật chất. Mạnh Tử luôn đặt đối lập gay gắt giữa nghĩa và lợi. Trong Truyện Kiều và trong các truyện Nôm khác, điển hình như Lục Vân Tiên, nguyên lý đối lập nghĩa và lợi vẫn là nguyên lý căn bản.
Nhân nghĩa chỉ có thể làm cho trời cảm động mà ra tay cứu vớt, ban thưởng cho con người. Còn trong thực tế cuộc đời, những thế lực chạy theo lợi mà chà đạp lên nhân nghĩa lại xuất hiện khắp nơi, lại thắng thế ở khắp nơi. Chúng chỉ bị trừng phạt dưới dạng một giấc mơ, qua bàn tay Từ Hải. Xét về lôgich hiện thực, sự tồn tại của chúng, như của một hệ thống, không thể xoá bỏ. Phiên toà Từ Hải có dáng dấp của ân oán giang hồ, của sự ân trả oán đền cá nhân chứ chưa thể là cuộc cách mạng xã hội. Nhưng ngay cả Từ Hải đã giúp Kiều làm điều “nhân nghĩa” thì triều đình của Từ cũng không tồn tại được.
Khái niệm “nhân nghĩa” của Nguyễn Du rất xa với khái niệm “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi. Nếu đi ngược về thời Nguyễn Trãi là thời đại mà Nho giáo đang xác lập vị trí khá vững vàng trong xã hội Việt Nam, ta sẽ thấy một bức tranh khác. Hồi thế kỷ XV, Nguyễn Trãi thật sự tin vào khả năng của nhân nghĩa trong việc tạo dựng một xã hội thái binh thịnh trị. Niềm tin ấy phản ánh trong hệ thống tư tưởng của ông, từ nguyên tắc chính trị của kẻ lãnh đạo cho đến cách sống của người dân thường. Dựa vào nguyên lý nhân nghĩa, ông đoán định khả năng thất bại của giặc Minh xâm lược tàn bạo và sự tất thắng của nghĩa quân Lam Sơn đứng đầu là Lê Lợi đã có một quá trình dài lâu chứa đức tích nhân. Dựa vào nhân nghĩa, ông dạy bảo con cháu và các thế hệ sau về lối sống đem lại niềm hạnh phúc. Không cần luật pháp, chỉ cần nhân nghĩa của người thống trị, đất nước sẽ thái bình. Nhân nghĩa duy trì quốc thế an. Nhưng trải qua thực tế hơn ba trăm năm lịch sử, chúng kiến sự suy đồi của nhân cách đạo đức của hàng ngũ thống trị, các nhà Nho đến thế kỉ XVIII đã mất niềm tin vào vai trò cùa nhân nghĩa nơi giai cấp thống trị. Nhân và nghĩa mà Nguyễn Du nói đến đây là nhằm vào đạo ứng xử giữa những người dân bình thường giúp đỡ nhau trong cuộc sống chứ không phải là đạo nhân nghĩa của kẻ thống trị dành cho người dân nữa. Những người dân thường phải cố kết với nhau bằng đạo nhân nghĩa, và nhân nghĩa ấy cũng đã không giúp họ chống chọi với những bão tố của cuộc sống.
Nguyễn Du là nhà nghệ sĩ vĩ đại. Ông yêu thương con người và quan tâm đến hình mẫu xã hội trong đó con người thời ông đang sống. Những điều trong thấy mà đau đớn lòng. Nguyễn Du đã nhìn thẳng vào cuộc sống, không chút ảo tưởng. Ông chuyển hoá xúc cảm của mình về cuộc sống xã hội qua các biểu tượng thơ ca hết sức gần gũi và thân thuộc với người Việt Nam. Do đó, xúc cảm về xã hội, về thân phân con người của ông đã có một sức lay động sâu xa.